Do nhiều yếu tố nên việc các cặp vợ chồng vô sinh hoặc các cá nhân có mong muốn sống độc thân ngày càng tăng. Theo đó là nhu cầu nhận nuôi con nuôi cũng tăng cao. Tuy nhiên, vấn đề nhận nuôi con nuôi của Việt Nam có những yêu cầu cụ thể để bảo vệ quyền và lợi ích của đứa trẻ được nhận nuôi hay là quyền trẻ em – một quyền con người mà từ lâu pháp luật Việt Nam đã quan tâm. Pháp luật Việt Nam quy định điều kiện cho người nhận con nuôi như sau:
Điều kiện chung đối với người nhận con nuôi
Khoản 1 Điều 14 Luật nuôi con nuôi năm 2010 quy định cụ thể về các điều kiện để cá nhân có thể nhận con nuôi. Cụ thể:
+ Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ: Bộ luật Dân sự quy định về người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ là người đủ 18 tuổi (năng lực pháp luật dân sự) và người này không bị mắc các bệnh tâm thần hoặc bệnh khác mà khiến cho họ không thể nhận thức hoặc điều khiển được hành vi của mình hoặc người này nghiện ma túy hoặc các chất kích thích khác dẫn đến bị hạn chế năng lực hành vi (năng lực hành vi dân sự). Như vậy, điều kiện đầu tiên của việc nhân con nuôi là cá nhân muốn nhận con nuôi phải là người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ.
+ Hơn con nuôi từ 20 tuổi trở lên. Pháp luật quy định người nhận nuôi phải hơn con nuôi từ 20 tuổi trở lên dựa trên việc xem xét lợi ích của con nuôi. Mặc dù quy định người đủ 18 tuổi và có đủ năng lực hành vi dân sự là có thể nhận con nuôi, nhưng nhận thấy trong thực tế một cá nhân 18 tuổi chưa đủ khả năng về kinh tế cũng như nhận thức để nhận nuôi một cá nhân khác hoặc dù có đủ khả năng về kinh tế và nhận thức thì vì độ tuổi này con quá trẻ nên hành vi nhận con nuôi có thể nhất thời và có thể thay đổi ý muốn gây ảnh hưởng đến lợi ích của con nuôi sau này. Vì vậy pháp luật quy định độ tuổi trên là hợp lý.
+ Có điều kiện về sức khỏe, kinh tế, chỗ ở bảo đảm việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con nuôi; Đây là quy định về điều kiện vật chất để đảm bảo cho quyền của con nuôi được phát triển trong một môi trường tốt nhất.
+ Có tư cách đạo đức tốt. Quy định này nhằm hướng đến tạo điều kiện cho con nuôi được giáo dục trong một gia đình lành mạnh và nhận được sự giáo dục tại gia đình từ một người bảo hộ có tư cách đạo đức tốt. Quy định này cũng nhằm loại bỏ những tình trạng con nuôi phát triển trong một môi trường lệch lạc do ảnh hưởng từ người lớn trong gia đình.
Bên cạnh 4 điều kiện nêu trên, có trường hợp cha dượng nhận con riêng của vợ, mẹ kế nhận con riêng của chồng làm con nuôi hoặc cô, cậu, dì, chú, bác ruột nhận cháu làm con nuôi thì không áp dụng hai điều kiện cuối. Ngoại lệ này dựa trên quy định quốc tế của Công ước Lahaye rằng ưu tiên cho trẻ em được phát triển ở gia đình gốc. Gia đình gốc ở đây được hiểu theo nghĩa là gia đình gần nhất của đứa trẻ được nhân nuôi về huyết thống và văn hóa. Quy định cũng dựa trên suy xét về lợi ích của đứa trẻ được nhận làm con nuôi khi cho rằng cô, cậu, dì, chú, bác, cha dượng, mẹ kế là những cá nhân có mối liên quan gần nhất với đứa trẻ được nhận nuôi và như thế sẽ có khả năng cao hơn đứa trẻ được nuôi dưỡng trong môi trường tốt hơn. Tuy nhiên quy định này cũng có hạn chế khi không lường trước được những trường hợp hy hữu mà những cá nhân này có thể không nuôi dưỡng tốt nhất cho đứa trẻ.
Trường hợp không được nhận con nuôi:
Đặc biệt, pháp luật Việt Nam quy định các cá nhân thuộc một trong các trường hợp sau thì không được nhận con nuôi:
– Người đang bị hạn chế một số quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên;
– Người đang bị cháp hành quyết định xử lý hành chính tại cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh;
– Người đang chấp hành hình phạt tù;
– Người chưa được xóa án tích về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của người khác; ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu, người có công nuôi dưỡng mình; dụ dỗ, ép buộc hoặc chứa chấp người chưa thanh niên vi phạm pháp luật; mua bán, đánh tráo, chiếm đoạt trẻ em.
Pháp luật quy định các trường hợp này để bảo vệ quyền lợi của đứa trẻ được nhận làm con nuôi. Các chủ thể bị cấm nuôi con nuôi đều không phù với với điều kiện thứ ba (về kinh tê) và điều kiện thứ tư (về đạo đức) trong các điều kiện chung nên thực tế họ không thể nhận nuôi con nuôi.
Như vậy, để nhận con nuôi thì người nhận nuôi phải đảm bảo đủ các yếu tố về năng lực hành vi dân sự, hơn con nuôi 20 tuổi trở lên và có đủ điều kiện kinh tế và đạo đức để nhận con nuôi. Ngoài ra những cá nhân này còn không thuộc một trong các trường hợp mà pháp luật cấm nhận con nuôi thì mới được nhận con nuôi.