Một trong những yếu tố cần thiết để có thể xác định một người có lỗi khi người đó thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, đó là năng lực trách nhiệm hình sự. Chỉ có những người có năng lực trách nhiệm hình sự mới có thể có lỗi và là chủ thể của tội phạm khi đạt đủ độ tuổi theo pháp luật Hình sự quy định. Vậy năng lực trách nhiệm hình sự là gì, pháp luật quy định về năng lực trách nhiệm hình sự ra sao?
Khái niệm năng lực trách nhiệm hình sự
Năng lực trách nhiệm hình sự là năng lực mà có thể phải chịu trách nhiệm hình sự của một chủ thể nếu người đó thực hiện hành vi phạm tội. Đối với trường hợp bình thường, chủ thể của tội phạm đều có năng lực nhận thức và năng lực điều khiển hành vi với khi đạt đủ đổ tuổi nhất định. Ngoài những trường hợp đó, pháp luật còn quy định một số trường hợp khác.
Người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự
Người có năng lực trách nhiệm hình sự là người có năng lực nhận thức và năng lực điều khiển hành vi. Ngoài ra, người đó phải có độ tuổi phù hợp với chính sách hình sự cụ thể của nhà nước trong từng giai đoạn cụ thể. Dựa trên yếu tố thứ nhất để đảm bảo chủ thể của tội phạm là người có năng lực để thực hiện hàn vi gây ra lỗi có mức độ nguy hiểm gây thiệt hại cho xã hội. Dựa trên yếu tố thứ hai là cần thiết xác định đối với người chưa đủ 18 tuổi có hành vi gây thiệt hại cho xã hội theo quy định luật Hình sự Việt Nam.
Người không có năng lực trách nhiệm hình sự
Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi họ đang mắc bệnh tâm thần, một số bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình. Tuy nhiên, để đáp ứng điều kiện đó thì phải do các cơ quan chuyên môn có thẩm quyền giám định, kết luận và sự xác nhận của tòa án. Người được coi là không có năng lực trách nhiệm hình sự thì không phải chịu trách nhiệm hình sự.
Vậy tại sao những người không có năng lực trách nhiệm hình sự pháp luật lại cho phép họ không phải chịu trách nhiệm hình sự. Xét dấu hiệu tâm lý,người trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự là người không có ( hoặc không còn ) năng lực nhận thức đòi hỏi của xã hội liên quan đến hành vi có tính gây thiệt hại cho xã hội đã thực hiện. Họ không có năng lực đánh giá hành vi đã thực hiện là đúng hay sai, nên làm hay không làm. Như vậy, họ cũng không thể có được năng lực kiềm chế thực hiện hành vi đó. Người trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự còn có thể là người tuy có năng lực nhận thức, tuy có khả năng đánh giá được tính chất xã hội của hành vi của mình nhưng do bệnh lý không thể kiểm chế được việc thực hiện hành vi đó.
Người hạn chế năng lực trách nhiệm hình sự
Đây là trường hợp chủ thể của tội phạm do mắc bệnh nên năng lực nhận thức hoặc năng lực điều khiển hành vi của chủ thể bị hạn chế. Người này không thuộc trường hợp không có điều kiện để có lỗi, nhưng tình trạng năng lực trách nhiệm hình sự bị hạn chế có ảnh hưởng đến mức độ lỗi. Đối với trường hợp này, chủ thể của tội phạm vẫn thuộc trường hợp có lỗi, họ phải chịu trách nhiệm hình sự những sẽ được pháp luật Việt Nam giảm nhẹ. Lỗi của họ trong trường hợp này là lỗi hạn chế ( do bệnh ). Do đó,pháp luật Hình sự Việt Nam coi tình trạng năng lực trách nhiệm hình sự hạn chế là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.Điều này được quy định tại: Điểm q Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2017.
Người trong tình trạng mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi do dùng bia rượu hoặc chất kích thích mạnh khác
Người phạm tội trong tình trạng mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi do dùng bia rượu hoặc chất kích thích mạnh khác thì vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự. Bởi vì, họ vẫn bị coi là có năng lực trách nhiệm hình sự. Họ có năng lực trách nhiệm hình sự khi dùng bia, rượu, chất kích thích mạnh khác và như vậy có nghĩa là chính họ đã tự tước bỏ khả năng nhận thức, khả năng điều khiển hành vi của mình. Những người đó tự đặt mình vào trạng thái khả năng mất điều khiển hành vi. Họ là người có lỗi đối với tình trạng mất khả năng nhận thức, khả năng điều khiển hành vi, việc uống bia rượu, chất kích thích là nguyên nhân chủ quan dẫn đến tình trạng đó. Do vậy, họ bị coi là có lỗi đối với hành vi có tính thiệt hại cho xã hội đã thực hiện trong tình trạng như vậy.
Cần lưu ý rằng : trong trường hợp nhất định , họ phải chịu trách nhiệm tăng nặng so với trường hợp bình thường. Đó là trường hợp lạm dụng bia rượu, chất kích thích mạnh khác như là “ phương tiện “ để phạm tội. Ví dụ như chủ thể của tội phạm không dám giết người. Họ uống bia rượu và coi đó như một cách thức khiến cho bản thân có bản lĩnh hơn để thực hiện hành vi giết người. Hoặc trong trường hợp, chủ thể của tội phạm dùng bia, rượu, các chất kích thích mạnh khi thực hiện công việc có tính chất đặc biệt – công việc mà cấm người thực hiện sử dụng rượu bia, chất kích thích. Ví dụ như dung bia, rượu, chất kích thích mạnh khi điều khiển phương tiện giao thông).