Kiện vật quyền và kiện trái quyền là hai thuật ngữ được sử dụng liên quan đến quyền sở hữu trong pháp luật dân sự. Vật quyền là quyền trên vật, còn trái quyền là quyền đối với vật của người khác. Vậy thì kiện vật quyền và kiện trái quyền khác nhau như nào? Pháp luật dân sự có quy định cụ thể gì về kiện vật quyền và kiện trái quyền không? Hãy theo dõi bài viết dưới đây.
Định nghĩa vật quyền và trái quyền
Vật quyền
“Vật quyền” chính là quyền trên vật, hay cách gọi quen thuộc hơn là quyền sở hữu. Quyền đối với tài sản của mình là quyền sở hữu.
Ví dụ: Bạn có quyền đối với tài sản hợp pháp của mình, trong đó bao gồm quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản đó.
Vật quyền còn được hiểu theo nghĩa chủ quan và khách quan:
– Theo nghĩa chủ quan thì vật quyền được hiểu đơn thuần là quyền của một chủ thể đối với một tài sản nhất định.
– Theo nghĩa khách quan thì đó là toàn bộ các quy phạm pháp luật quy định về vật với tư cách là đối tượng của vật quyền.
Trái quyền
“Trái quyền” đối ngược lại với vật quyền. Tức là quyền của một người, được phép yêu cầu người khác phải thực hiện hoặc không thực hiện một hành vi nhất định nào đó. Và chỉ qua hành vi của người đó thì quyền và lợi ích của người có quyền mới được đáp ứng.
Vậy trái quyền có thể là nghĩa vụ làm hoặc không làm một việc hoặc chuyển quyền sở hữu tài sản.
Bộ luật Dân sự 2015 không sử dụng thuật ngữ “trái quyền” mà sử dụng thuật ngữ “quyền yêu cầu” để chỉ mối quan hệ giữa một người có quyền và một người có nghĩa vụ tương ứng.
Phân biệt kiện vật quyền và kiện trái quyền
Tiêu chí | Kiện vật quyền | Kiện trái quyền |
Phương pháp thực hiện | Kiện đòi lại tài sản | Kiện đòi bồi thường, kiện yêu cầu ngăn chặn hoặc chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật đối với việc thực hiện quyền với tài sản |
Trọng tâm điều chỉnh | Quy định cho người chủ tài sản có quyền đối với vật. Tức là tự thực hiện, thỏa mãn nhu cầu về tài sản của chính người đâm kiện | Quy định cho người khác phải thực hiện hành vi vì lợi ích hợp pháp của người khác. Cụ thể là khi nào nguyện đơn kiện và đòi được bồi thường hoặc bên kia chấm dứt hành vi thì mới đáp ứng được yêu cầu của nguyên đơn |
Phân loại | Vật quyền được chia thành hai loại: (1) quyền sở hữu; và (2) các loại vật quyền khác (mà các nước gọi là vật quyền hạn chế). | Trái quyền được chia thành hai loại: (1) trái quyền có đối tượng là công việc; và (2) trái quyền có đối tượng là chuyển giao một vật quyền |
Quan hệ điều chỉnh | Giữa chủ sở hữu với tài sản | Giữa các chủ thể với nhau. Cụ thể ở đây là giữa chủ thể có quyền và chủ thể thực hiện nghĩa vụ. |
Khi phân biệt hai khái niệm về vật quyền và trái quyền, luật pháp của các nước trên thế giới hướng đến ý nghĩa trọng tâm điều chỉnh. Vật quyền thì trọng tâm điều chỉnh về việc quy định cho người chủ tài sản có những quyền gì đối với vật. Còn với trái quyền, trọng tâm lại là bắt chủ sở hữu phải làm những cái gì vì lợi ích hợp pháp của người khác.