Ngày 01/01/2021, Bộ luật Lao động năm 2019 sẽ chính thức có hiệu lực, kéo theo một số thay đổi liên quan đến quy định về nghỉ việc riêng, nghỉ không lương theo hướng có lợi hơn dành cho người lao động.
Nghỉ không hưởng lương
Người lao động được nghỉ việc không hưởng lương khi có các sự việc sau:
Ông nội, bà ngoại, ông nội, bà ngoại mất; anh chị em ruột; bố mẹ kết hôn; anh chị em ruột mất. Khi đó, người lao động được nghỉ một ngày và buộc phải báo trước cho người sử dụng lao động. Ngoài ra, người lao động có thể thỏa thuận với người sử dụng lao động về việc nghỉ không hưởng lương nhưng không giới hạn số ngày nghỉ hoặc lý do nghỉ việc.
Trên thực tế, việc nghỉ không hưởng lương sẽ không có căn cứ áp dụng nếu người lao động vẫn đủ điều kiện nghỉ hưởng lương. Cụ thể, người lao động có thể được nghỉ hàng năm nếu làm việc cho người lao động từ đủ 12 tháng. Số ngày nghỉ hàng năm sẽ phụ thuộc vào cách thức thực hiện công việc của người lao động, theo đó:
- Nếu người lao động làm việc trong điều kiện bình thường thì được nghỉ hàng năm 12 ngày.
- Người lao động làm công việc có điều kiện khó khăn, nguy hiểm theo danh mục nghề quy định tại Thông tư 15/2016/BLĐTBXH của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội thì được nghỉ 14 ngày. Trường hợp công việc thuộc danh mục công việc đặc biệt nặng nhọc, đặc biệt độc hại được nghỉ 16 ngày.
- Người lao động có thể thỏa thuận với người sử dụng lao động về việc nghỉ một lần hay chia tay nhiều lần trong năm. Trường hợp nghỉ việc phải báo trước cho người sử dụng lao động.
Đóng bảo hiểm xã hội đối với trường hợp nghỉ không hưởng lương
Theo quy định của pháp luật người lao động không làm việc và không hưởng tiền lương từ 14 ngày làm việc trở lên trong tháng thì tháng đó không đóng bảo hiểm xã hội không được tính đóng BHXH, trừ trường hợp nghỉ việc để hưởng chế độ thai sản.
Như vậy, người lao động nghỉ không hưởng lương nếu thời gian nghỉ quá 14 ngày thì cả người sử dụng lao động và người lao động sẽ không phải tham gia BHXH. Khi đó, doanh nghiệp phải gửi thông báo cắt giảm số lao động đến cơ quan Bảo hiểm xã hội. Sau này, khi người lao động trở lại làm việc phải thông báo việc tăng số lượng người lao động với cơ quan Bảo hiểm xã hội. Trường hợp người lao động nghỉ việc không hưởng lương từ 14 ngày trở xuống thì doanh nghiệp vẫn phải đóng bảo hiểm xã hội cho người lao động.
Người sử dụng lao động có quyền từ chối cho nhân viên nghỉ việc không hưởng lương không?
Trong trường hợp người thân trong gia đình chết hoặc kết hôn mà người lao động đã thông báo thì người sử dụng lao động phải tạo điều kiện cho người lao động nghỉ việc theo quy định.
Nếu người sử dụng lao động không cho người lao động nghỉ việc riêng, nghỉ không hưởng lương theo đúng quy định pháp luật sẽ bị phạt tiền từ 02 – 05 triệu đồng (theo điểm a khoản 1 Điều 17 Nghị định 28/2020/NĐ-CP).
Vì vậy, ngoại trừ trường hợp ngoại lệ nêu trên, người sử dụng lao động có quyền từ chối cho người lao động nghỉ việc không hưởng lương. Nếu người lao động tự ý nghỉ việc không lương thì có căn cứ để người lao động vi phạm hợp đồng lao động. Khi đó, người sử dụng lao động có thể căn cứ vào các quy định của pháp luật, các quy định về xử phạt vi phạm trong hợp đồng hoặc nội quy lao động để xử lý người lao động.
Số ngày nghỉ không hưởng lương tối đa đối với người lao động
Theo Điều 111 Bộ luật lao động 2019 có quy định:
Người lao động có đủ 12 tháng làm việc cho một người sử dụng lao động thì được nghỉ hằng năm, hưởng nguyên lương theo hợp đồng lao động, cụ thể: 12 ngày làm việc đối với người làm công việc trong điều kiện bình thường;14 ngày làm việc đối với người làm công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc người làm việc ở những nơi có có điều kiện sinh sống khắc nghiệt theo danh mục do Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội chủ trì phối hợp với Bộ Y tế ban hành hoặc lao động chưa thành niên hoặc lao động là người khuyết tật; 16 ngày làm việc đối với người làm công việc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc người làm việc ở những nơi có điều kiện sinh sống đặc biệt khắc nghiệt theo danh mục do Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội chủ trì phối hợp với Bộ Y tế ban hành.
Người sử dụng lao động có quyền quy định lịch nghỉ hằng năm sau khi tham khảo ý kiến của người lao động và phải thông báo trước cho người lao động.
Người lao động có thể thoả thuận với người sử dụng lao động để nghỉ hằng năm thành nhiều lần hoặc nghỉ gộp tối đa 03 năm một lần.
Khi nghỉ hằng năm, nếu người lao động đi bằng các phương tiện đường bộ, đường sắt, đường thủy mà số ngày đi đường cả đi và về trên 02 ngày thì từ ngày thứ 03 trở đi được tính thêm thời gian đi đường ngoài ngày nghỉ hằng năm và chỉ được tính cho 01 lần nghỉ trong năm.
Như vậy theo quy định của Bộ luật Lao động hiện hành, số ngày nghỉ không hưởng lương tối đa không được quy định. Trừ trường hợp nghỉ do ông, bà, anh, chị mất, người lao động được nghỉ không hưởng lương tối đa 1 ngày. Các trường hợp còn lại sẽ dựa trên sự thỏa thuận của người lao động và người sử dụng lao động.