Thẩm quyền đăng ký việc nuôi con nuôi đã và đang là một vấn đề không chỉ nhận được sự quan tâm của những người trong cuộc mà còn là vấn đề nhận được sự chú ý sâu sắc của toàn xã hội.
1. Thẩm quyền đăng ký việc nuôi con nuôi trong nước
“UBND xã, phường, thị trấn nơi thường trú của người được nhận làm con nuôi thực hiện đăng ký việc nuôi con nuôi”. Theo quy định này, người nhận con nuôi có thể nộp hồ sơ xin nhận con nuôi tại UBND cấp xã của một trong hai nơi. Đối với “trường hợp trẻ em bị bỏ rơi chưa được chuyển vào cơ sở nuôi dưỡng và chưa đăng ký hộ khẩu thường trú thì UBND cấp xã nơi lập biên bản xác nhận trẻ em bị bỏ rơi có thẩm đăng ký việc nuôi con nuôi“ (Khoản 1 Điều 2 Nghị định 19/2011/NĐ-CP).
Đối với trường hợp trẻ em đang sống tại cơ sơ nuôi dưỡng thì UBND cấp xã nơi có trụ sở của cơ sở nuôi dưỡng có thẩm quyền đăng ký việc nuôi con nuôi. “Trường hợp cha dượng hoặc mẹ kế nhận con riêng của vợ/chồng làm con nuôi hoặc cô, cậu, dì, chú, bác ruột nhận cháu làm con nuôi hoặc có sự thỏa thuận của người nhận con nuôi với cha mẹ đẻ hoặc người giám hộ của người được nhận làm con nuôi thì việc nuôi con nuôi được đăng ký tại UBND cấp xã nơi thường trú của người nhận con nuôi”.
2. Thẩm quyền đăng ký việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam
“Đối với việc nuôi con nuôi nước ngoài, thì Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây gọi là Ủy ban nhân dân cấp tỉnh), nơi thường trú của người được nhận làm con nuôi quyết định cho người đó làm con nuôi; trường hợp trẻ em ở cơ sở nuôi dưỡng được nhận làm con nuôi, thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, nơi có trụ sở của cơ sở nuôi dưỡng trẻ em quyết định cho trẻ em đó làm con nuôi.
Sở Tư pháp thực hiện đăng ký việc nuôi con nuôi nước ngoài sau khi có quyết định của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh”.
3. Thẩm quyền đăng ký nuôi con nuôi của người nước ngoài cư trú ở khu vực biên giới
Thẩm quyền đăng ký nuôi con nuôi của người nước ngoài cư trú ở khu vực biên giới của nước láng giềng nhận trẻ em Việt Nam thường trú ở khu vực biên giới của Việt Nam làm con nuôi thuộc Ủy ban nhân cấp xã nơi thường trú của trẻ em được nhận làm con nuôi (khoản 2 Điều 21 Nghị định 19/2011/NĐ-CP).
4. Thẩm quyền đăng ký nuôi con nuôi giữa công dân Việt Nam với nhau tạm trú ở nước ngoài
Thẩm quyền đăng ký nuôi con nuôi giữa công dân Việt Nam với nhau tạm trú ở nước ngoài thuộc Cơ quan đại diện nơi tạm trú của người được nhận làm con nuôi hoặc của người nhận con nuôi thực hiện đăng ký việc nuôi con nuôi; trường hợp cả hai bên tạm trú ở nước không có Cơ quan đại diện, thì người nhận con nuôi nộp hồ sơ đăng ký việc nuôi con nuôi tại Cơ quan đại diện nào thuận tiện nhất đối với họ (Khoản 3 Điều 2 Nghị Định 19/2011/NĐ-CP).
5. Thẩm quyền đăng ký nuôi con nuôi thực tế
Theo hướng dẫn tại Điều 23 Nghị định 19/2011/NĐ-CP thời hạn đăng ký từ ngày 01/01/2011 đến hết ngày 31/12/2015 tại UBND xã, phường, thị trấn nơi thường trú của cha mẹ nuôi hoặc con nuôi. Việc đăng ký nuôi con nuôi thực tế cũng được áp dụng đối với trường hợp công dân Việt Nam thường trú ở khu vực biên giới nhận trẻ em nước láng giềng làm con nuôi trước ngày 01/01/2011 mà chưa đăng ký.Sau khi được đăng ký, quan hệ nuôi con nuôi sẽ có giá trị pháp lý kể từ thời điểm phát sinh quan hệ nuôi con nuôi.