Để được Tòa án thụ lý, giải quyết trong cùng vụ án thì phản tố của bị đơn đối với nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập phải đáp ứng được những yêu cầu nhất định quy định tại khoản 1 Điều 200 BLTTDS 2015 đó là: “Cùng với việc phải nộp cho Tòa án văn bản ghi ý kiến của mình đối với yêu cầu của nguyên đơn, bị đơn có quyền yêu cầu phản tố đối với nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập.” và quan trọng đó là yêu cầu này phải được đưa ra kịp thời, đúng thời điểm.
Quy định của Bộ luật tố tung dân sự 2004
Trước đây khoản 1 Điều 176 BLTTDS 2004 sửa đổi bổ sung năm 2011 có quy định: “Cùng với việc phải nộp cho Tòa án văn bản ghi ý kiến của mình đối với yêu cầu của người khởi kiện, bị đơn có quyền yêu cầu phản tố đối với nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập.”. Đồng thời, khoản 3 Điều 176 BLTTDS 2004 sửa đổi bổ sung năm 2011 cũng chỉ ra rõ: “ Bị đơn có quyền đưa ra yêu cầu phản tố trước khi Tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm”.
Với các quy định này có thể hiểu, khoảng thời gian mà bị đơn được quyền đưa ra yêu cầu phản tố chỉ trong khoảng thời gian từ khi nhận được thông báo thụ lý vụ án của Tòa án cho đến trước thời điểm Tòa án ban hành quyết định đưa vụ án ra xét xử. Tuy nhiên, thời điểm bắt đầu của yêu cầu phản tố đối với người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập sẽ muộn hơn. Bởi vì, về nguyên tắc, yêu cầu độc lập chỉ được đưa ra sau khi người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan biết việc Tòa án đang giải quyết vụ án và họ được đưa vào tham gia tố tụng trong cùng vụ án.
Quy định của Bộ luật tố tụng dân sự 2015
Nhưng đến Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 đã có quy định khác so với BLTTDS 2004 sửa đổi bổ sung năm 2011 về thời điểm đưa ra yêu cầu phản tố của bị đơn. Đó là tại khoản 3 Điều 200 BLTTDS 2015 quy định: “ Bị đơn có quyền đưa ra yêu cầu phản tố trước thời điểm mở phiên tòa họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải”.
So với quy định tại khoản 3 Điều 176 BLTTDS năm 2004 sửa đổi, bổ sung năm 2011, thời hạn để bị đơn đưa ra yêu cầu phản tố theo quy định tại khoản 3 Điều 200 BLTTDS 2015 đã bị rút ngắn hơn, cụ thể là trước thời điểm mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, chứ không còn được đến thời điểm trước khi Tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm.
Quy định như vậy giúp cho việc giải quyết yêu cầu phản tố của bị đơn của Tòa án hợp lý hơn và chủ động hơn. Bởi lẽ, nếu quy định như trước đây sẽ dẫn tới trường hợp Tòa án đã tiến hành hòa giải xong đối với vụ án thì bị đơn mới đưa ra yêu cầu phản tố. Khi đó, Tòa án lại phải tiến hành các thủ tục xác minh, thu thập chứng cứ, sau đó mới tiến hành hòa giải riêng với yêu cầu phản tố của bị đơn và như vậy việc giải quyết vụ án sẽ bị kéo dài, gây tốn kém về thời gian, tiền bạc, công sức của cơ quan tiến hành tố tụng và của các đương sự.