Luật Doanh nghiệp số 59/2020/QH14 sẽ có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2021, thay thế cho Luật số 68/2014/QH13 của Quốc hội. Luật Doanh nghiệp mới đã sửa đổi, bổ sung nhiều quy định tiến bộ, nhằm tháo gỡ vướng mắc và tạo điều kiện cho việc thành lập, quản lý, giải thể doanh nghiệp được thuận lợi hơn. Luật Doanh nghiệp cũng quy định rõ đối tượng nào được quyền thành lập, góp vốn, điều hành, quản lý doanh nghiệp. Để hiểu rõ hơn, chúng ta sẽ cùng đi sâu tìm hiểu về quy định đó trong bài viết.
Đối tượng không được thành lập doanh nghiệp
Pháp luật về doanh nghiệp khuyến khích, tạo điều kiện cho nhiều cá nhân, tổ chức được quyền thành lập, góp vốn, mua và bán phần vốn, quản lý, điều hành doanh nghiệp. Tuy nhiên, vì nhiều lý do khác nhau, luật chỉ cho phép một số đối tượng nhất định có quyền này. Viên chức theo quy định của pháp luật, là người được tuyển dụng, làm việc tại đơn vị sự nghiệp công lập theo chế độ hợp đồng làm việc và hưởng lương. Theo khoản 2 Điều 17 Luật Doanh nghiệp 2020, những tổ chức, cá nhân sau đây không có quyền thành lập, góp vốn, mua cổ phần, mua phần vốn góp và quản lý doanh nghiệp:
“a) Cơ quan nhà nước, đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân sử dụng tài sản nhà nước để thành lập doanh nghiệp kinh doanh thu lợi riêng cho cơ quan, đơn vị mình;
b) Cán bộ, công chức, viên chức theo quy định của Luật Cán bộ, công chức và Luật Viên chức;
c) Sĩ quan, hạ sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân, viên chức quốc phòng trong các cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân Việt Nam; sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp, công nhân công an trong các cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân Việt Nam, trừ người được cử làm đại diện theo ủy quyền để quản lý phần vốn góp của Nhà nước tại doanh nghiệp hoặc quản lý tại doanh nghiệp nhà nước;
d) Cán bộ lãnh đạo, quản lý nghiệp vụ trong doanh nghiệp nhà nước theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 88 của Luật này, trừ người được cử làm đại diện theo ủy quyền để quản lý phần vốn góp của Nhà nước tại doanh nghiệp khác;
đ) Người chưa thành niên; người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự; người bị mất năng lực hành vi dân sự; người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi; tổ chức không có tư cách pháp nhân;
e) Người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự, bị tạm giam, đang chấp hành hình phạt tù, đang chấp hành biện pháp xử lý hành chính tại cơ sở cai nghiện bắt buộc, cơ sở giáo dục bắt buộc hoặc đang bị Tòa án cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định; các trường hợp khác theo quy định của Luật Phá sản, Luật Phòng, chống tham nhũng.
Trường hợp Cơ quan đăng ký kinh doanh có yêu cầu, người đăng ký thành lập doanh nghiệp phải nộp Phiếu lý lịch tư pháp cho Cơ quan đăng ký kinh doanh;
g) Tổ chức là pháp nhân thương mại bị cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định theo quy định của Bộ luật Hình sự.”
Như vậy, Luật đã quy định rõ, viên chức không có quyền thành lập doanh nghiệp. Nhưng viên chức có thể tham gia góp vốn, mua cổ phần, mua phần vốn góp vào công ty cổ phần, công ty hợp doanh, công ty trách nhiệm hữu hạn trừ trường hợp pháp luật quy định về những đối tượng không được tham gia góp vốn, mua cổ phần, mua phần vốn góp vào các loại hình công ty.
Viên chức được góp vốn vào những loại hình doanh nghiệp nào
Theo khoản 3 Điều 14 Luật Viên chức quy định về quyền của viên chức về hoạt động kinh doanh và làm việc ngoài thời gian như sau:
“Được góp vốn nhưng không tham gia quản lý, điều hành công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh, hợp tác xã, bệnh viện tư, trường học tư và tổ chức nghiên cứu khoa học tư, trừ trường hợp pháp luật chuyên ngành có quy định khác”
Chiếu theo quy định của luật, viên chức được góp vốn vào công ty, nhưng chỉ một số loại hình công ty nhất định.
Đối với công ty trách nhiệm hữu hạn, viên chức không thể góp vốn vào loại hình công ty này. Công ty TNHH được chia thành công ty TNHH một thành viên và công ty TNHH hai thành viên trở lên. Khi góp vốn vào công ty TNHH, người góp vốn đồng thời là chủ sở hữu của công ty và sẽ được tham gia quản lý, điều hành trực tiếp công ty. Do đó viên chức không thể góp vốn vào loại hình công ty này.
Đối với công ty cổ phần, viên chức chỉ được góp vốn vào công ty với tư cách là cổ đông góp vốn và nằm trong Đại hội đồng cổ đông. Viên chức không thể tham gia vào Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát hay giữ chức vụ Giám đốc (hoặc Tổng giám đốc) vì điều này đồng nghĩa với việc nắm quyền điều hành công ty.
Đối với công ty hợp danh, viên chức chỉ được góp vốn với tư cách là thành viên góp vốn mà không thể là thành viên hợp danh. Thành viên hợp danh nắm quyền kiểm soát, quản lý và quyết định mọi hoạt động của công ty, trong khi đó thành viên góp vốn chỉ được hưởng lợi nhuận trong hoạt động kinh doanh của công ty mà không được trao bất cứ quyền gì để điều hành công ty.