Quyền nuôi dưỡng con luôn là mối quan tâm của các cặp vợ chồng khi đi tới ly hôn. Vậy khi không đăng ký kết hôn quyền nuôi con được pháp luật quy định như thế nào?
1. Cơ sở pháp lý
Luật hôn nhân & gia đình 2014
Bộ luật tố tụng dân sự 2015
2. Quyền nuôi dưỡng con khi không đăng ký kết hôn
Quyền nuôi con luôn là một trong những nội dung tranh chấp. Theo quy định tại điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 thì nam nữ sống chung với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn thì không được công nhận là vợ chồng.
“Điều 9. Đăng ký kết hôn
- Việc kết hôn phải được đăng ký và do cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện theo quy định của Luật này và pháp luật về hộ tịch.
Việc kết hôn không được đăng ký theo quy định tại khoản này thì không có giá trị pháp lý.”
Quan hệ vợ chồng mà quan hệ đó lại không được xác lập theo thủ tục và trình tự pháp lý nhất định. Thực trạng này nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp như: sau một thời gian chung sống các bên có con chung; tài sản thì giữa họ nảy sinh mâu thuẫn và yêu cầu ly hôn.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 68 Luật hôn nhân gia đình 2014 thì dù nam nữ có kết hôn hay không kết hôn thì mối quan hệ giữa cha mẹ và con vẫn được pháp luật bảo vệ tuyệt đối như sau: “Con sinh ra không phụ thuộc vào tình trạng hôn nhân của cha mẹ đều có quyền và nghĩa vụ như nhau đối với cha mẹ của mình được quy định tại Luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan”. Như vậy dù là con trong giá thú hay con ngoài giá thú thì quyền; nghĩa vụ giữa cha mẹ và con vẫn bình đẳng như nhau, không có sự phân biệt đối xử.
Như vậy cha mẹ đều phải có nghĩa vụ chăm sóc nuôi dưỡng con cái, dù đó là con trong giá thú hay ngoài giá thú, pháp luật bảo vệ quyền nuôi con và nhằm bảo vệ quyền và lợi ích cho con trẻ.
Quyền nuôi con khi không đăng ký kết hôn trong một số trường hợp cụ thể:
a) Quyền nuôi dưỡng con đối với trường hợp con dưới 36 tháng tuổi
Quyền nuôi con khi không đăng ký kết hôn đối với đứa trẻ dưới 36 tháng tuổi được ưu tiên cho người mẹ nuôi; điều này được áp dụng theo quy định Điều 81 Luật hôn nhân gia đình 2014. Nếu cha mẹ có thỏa thuận khác hoặc người mẹ không có điều kiện nuôi con thì người cha được quyền nuôi con. Người cha có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con theo quy định của pháp luật.
b) Quyền nuôi dưỡng con đối với trường hợp con trên 36 tháng tuổi
Quyền nuôi con khi không đăng ký kết hôn đối với con trên 36 tháng tuổi sẽ do hai bên cha mẹ thỏa thuận; pháp luật tôn trọng sự thỏa thuận của hai bên sao cho hợp tình; hợp lý và bảo vệ được quyền và lợi ích cho đứa trẻ. Nếu hai bên có tranh chấp về quyền nuôi con thì có thể yêu cầu tòa án giải quyết. Lưu ý đối với trường hợp này các bên phải chứng minh được mối quan hệ cha mẹ con để tòa án có căn cứ giải quyết.
c) Quyền nuôi dưỡng con đối với trường hợp con trên 7 tuổi
Khi giải quyết thủ tục ly hôn (hủy hôn nhân trái pháp luật), quyền nuôi con khi không đăng ký kết hôn đối với con trên 7 tuổi thì tòa án sẽ xem xét ý kiến của đứa con muốn sống với cha hay với mẹ. Vì vậy ý kiến của đứa trẻ sẽ là một căn cứ quan trọng để phân xử quyền nuôi con.
Từ những quy định ở trên, có thể rút ra một điều:
– Khi xem xét ai sẽ là người có quyền nuôi con, Tòa án sẽ căn cứ vào nhiều yếu tố khác nhau với mục đích tìm được người có thể đáp ứng tối đa yêu cầu cho sự phát triển của đứa trẻ. Nhìn chung Tòa án sẽ dựa trên 3 yêu tố sau:
+ Điều kiện về vật chất bao gồm: Ăn, ở, sinh hoạt, điều kiện học tập…các yếu tố đó dựa trên thu nhập, tài sản, chỗ ở của cha mẹ;
+ Các yếu tố về tinh thần bao gồm: Thời gian chăm sóc, dạy dỗ, giáo dục con; tình cảm đã dành cho con từ trước đến nay, điều kiện cho con vui chơi giải trí; nhân cách đạo đức, trình độ học vấn … của cha mẹ.
+ Nguyện vọng của con: Con mong muốn được ở với ai (chỉ áp dụng với con từ đủ 7 tuổi trở lên).
Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con; lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom; chăm sóc, nuôi dưỡng; giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.