Căn cứ vào Điều 19 của Luật thuế thu nhập cá nhân 2007 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2012) thì mức giảm trừ gia cảnh khi tính thuế thu nhập cá nhân từ tiền lương, tiền công của đối tượng nộp thuế là cá nhân cư trú được thực hiện như sau:
– Mức giảm trừ đối với người nộp thuế: 9 triệu đồng/tháng (108 triệu đồng/năm);
– Mức giảm trừ đối với mỗi người phụ thuộc: 3,6 triệu đồng/tháng (43,2 triệu đồng/năm).
Đồng thời, người nộp thuế cần lưu ý một số vấn đề nêu sau:
– Việc xác định mức giảm trừ gia cảnh đối với người phụ thuộc thực hiện theo nguyên tắc mỗi người phụ thuộc chỉ được tính giảm trừ một lần vào một đối tượng nộp thuế.
– Người phụ thuộc là người mà đối tượng nộp thuế có trách nhiệm nuôi dưỡng, bao gồm:
+ Con chưa thành niên; con bị tàn tật, không có khả năng lao động;
+ Các cá nhân không có thu nhập hoặc có thu nhập không vượt quá mức quy định, bao gồm con thành niên đang học đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp hoặc học nghề; vợ hoặc chồng không có khả năng lao động; bố, mẹ đã hết tuổi lao động hoặc không có khả năng lao động; những người khác không nơi nương tựa mà người nộp thuế phải trực tiếp nuôi dưỡng.
Trong đó, Thông tư quy định Về giảm trừ gia cảnh cho người nộp thuế như sau: Cá nhân vừa có thu nhập từ kinh doanh, vừa có thu nhập từ tiền lương, tiền công thì khi quyết toán thuế thu nhập cá nhân tính giảm trừ gia cảnh một lần vào tổng thu nhập từ kinh doanh và từ tiền lương, tiền công và lựa chọn tính giảm trừ gia cảnh cho bản thân tại một nơi.
Trường hợp Người nước ngoài là cá nhân cư trú tại Việt Nam thì tính giảm trừ gia cảnh cho bản thân từ tháng 01 hoặc từ tháng đến Việt Nam (trường hợp cá nhân lần đầu tiên có mặt tại Việt Nam đến tháng kết thúc hợp đồng và rời Việt Nam trong năm tính thuế).
Nếu trong năm tính thuế cá nhân chưa giảm trừ cho bản thân hoặc giảm trừ cho bản thân chưa đủ 12 tháng thì được giảm trừ đủ 12 tháng khi thực hiện quyết toán thuế.