Khoản 7 Điều 3 Luật Hôn nhân gia đình 2014 quy định: “Chung sống như vợ chồng là việc nam, nữ tổ chức cuộc sống chung và coi nhau là vợ chồng”.
Khoản 2 Điều 53 Luật Hôn nhân gia đình quy định về cách thức xử lý đối với hành vi chung sống như vợ chồng: “Trong trường hợp không đăng ký kết hôn mà có yêu cầu ly hôn thì Tòa án thụ lý và tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng theo quy định tại Khoản 1 Điều 14 của Luật này; nếu có yêu cầu về con và tài sản thì giải quyết theo quy định tại Điều 15 và Điều 16 của Luật này”. Như vậy, nếu có yêu cầu ly hôn thì Tòa án sẽ giải quyết như sau:
Đối với quan hệ nhân thân
Điều 14 Luật Hôn nhân gia đình quy định: “Nam, nữ có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật này chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn thì không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ và chồng”.
Như vậy, các quyền và nghĩa vụ của vợ chồng được quy định từ Điều 17 đến Điều 23 Luật Hôn nhân gia đình (như bình đẳng với nhau về quyền và nghĩa vụ, tự do lựa chọn nơi cư trú, được tôn trọng danh dự, nhân phẩm, uy tín, được tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo,…) không được pháp luật công nhận nên không phát sinh và không được pháp luật bảo vệ.
Đối với quan hệ tài sản quy định tại Điều 16 Luật Hôn nhân gia đình
Điều 16 quy định: “1.Quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn được giải quyết theo thỏa thuận giữa các bên; trong trường hợp không có thỏa thuận thì giải quyết theo quy định của Bộ luật dân sự và các quy định khác của pháp luật có liên quan. 2. Việc giải quyết quan hệ tài sản phải đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của phụ nữ và con; công việc nội trợ và các công việc khác có liên quan để duy trì đời sống chung được coi như lao động có thu nhập”.
Luật ưu tiên giải quyết quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng của các bên nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng kí kết hôn theo thỏa thuận của các bên.
Đối với quan hệ cha, mẹ, con theo Điều 15 Luật Hôn nhân gia đình
Điều này quy định: “Quyền, nghĩa vụ giữa nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng và con được giải quyết theo quy định của Luật này và quyền, nghĩa vụ của cha mẹ và con”.
Việc quy định và công nhận quan hệ này là cần thiết và hợp lý. Bởi quan hệ giữa cha mẹ và con là quan hệ nhân thân không thể chuyển giao. Do đó, những quyền và nghĩa vụ của cha mẹ với con và ngược lại là hiển nhiên, bất kể quan hệ hôn nhân giữa cha mẹ có hợp pháp hay không.