Có rất nhiều trường hợp người có hành vi trái với quy định của bộ luật hình sự nhưng không phải chịu trách nhiệm hình sự; một trong những trường hợp đó là khi người đó không có năng lực hình sự khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội.
1. Trách nhiệm hình sự
Trách nhiệm hình sự là trách nhiệm của người phạm tội phải chịu về hành vi phạm tội của mình. TNHS là một dạng trách nhiệm pháp lí; bao gồm: nghĩa vụ phải chịu sự tác động của hoạt động truy cứu TNHS; chịu bị kết tội; chịu biện pháp cưỡng chế của trách nhiệm hình sự (hình phạt, biện pháp tư pháp) và chịu mang án tích.
2. Trường hợp không có năng lực trách nhiệm hình sự
Điều 13 BLHS quy định có hai trường hợp tình trạng bao gồm:
- Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình; thì không phải chịu TNHS. Ví dụ: người mắc bệnh tâm thần bỗng nhiên lao vào đánh đập; một người mà họ cho rằng đó là người sẽ gây nguy hiểm cho họ; hay trường hợp người mắc bệnh dại bỗng nhiên có hành vi gây hỏa hoạn…đối với những người này; tuy không bị truy cứu trách nhiệm nhưng phải áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh.
- Người phạm tội trong khi có năng lực trách nhiệm hình sự; nhưng đã lâm vào tình trạng quy định tại khoản 1 Điều này trước khi bị kết án, thì cũng được áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh. Ví dụ: Một người khi phạm tội vô ý làm chết người đã khiến một đứa bé thiệt mạng; vì quá hối hận và dằn vặt nên đã bị tâm thần; người này cũng sẽ không phải chịu trách nhiệm hành sự, cũng như ở mục trước, họ bị áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh; tuy nhiên, sau khi khỏi bệnh, người đó có thể phải chịu TNHS.
Đây cũng chính là trường hợp đã bị nhiều tội phạm nguy hiểm lợi dụng để trốn tránh TNHS. Ví dụ: A là cán bộ nhà nước; trong thời gian đương nhiệm đã tham ô hàng tỉ đồng; tuy nhiên đã không bị khởi tố do có xác nhận bị tâm thần sau khi nghỉ hưu của bệnh viện.