Sau khi nhận và thụ lý đơn khởi kiện của nguyên đơn, Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án phải gửi thông báo thụ lý vụ án đó cho bị đơn. Theo quy định tại khoản 1 Điều 199 BLTTDS 2015 quy định về quyền, nghĩa vụ của bị đơn khi nhận được thông báo thì “Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được thông báo, bị đơn phải nộp cho Tòa án văn bản ghi ý kiến của mình về yêu cầu của người khởi kiện và các tài liệu chứng cứ kèm theo, yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập ( nếu có)”. Theo khoản 4 Điều 72 và khoản 1 Điều 200 BLTTDS 2015, bị đơn có quyền đưa ra yêu cầu phản tố đối với nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập nếu có liên quan đến yêu cầu của nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập hoặc đề nghị đối trừ với nghĩa vụ của nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến yêu cầu độc lập.
Ta có thể thấy rằng “Phản tố” được hiểu là một quyền của người “bị tố” – người bị kiện hay chính là bị đơn – nhằm đưa ra những yêu cầu “phản” lại với những “tố” – yêu cầu của người khởi kiện. “Phản” ở đây được hiểu theo nghĩa rộng có tính đối lập với yêu cầu khởi kiện nhưng sự đối lập không chỉ bao gồm việc loại trừ trực tiếp yêu cầu của nguyên đơn mà có thể theo hướng bù trừ nghĩa vụ được nêu trong yêu cầu của nguyên đơn.
Việc đưa ra ý kiến bằng văn bản của bị đơn với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ( quyền phản tố), vì đây là quyền, vì vậy bị đơn có thể thực hiện hoặc không thực hiện.
Như vậy, yêu cầu phản tố của bị đơn chỉ phát sinh khi có việc nguyên đơn kiện bị đơn và Tòa án có thẩm quyền đã thụ lý vụ án đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, sau đó bị đơn cũng cho rằng nguyên đơn xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của mình nên có đơn yêu cầu Tòa án giải quyết cùng với việc giải quyết yêu cầu của nguyên đơn trong cùng một vụ án. Trường hợp bị đơn có yêu cầu phản bác đối với yêu cầu của nguyên đơn (như yêu cầu Tòa án không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn hoặc chỉ chấp nhận một phần yêu cầu của nguyên đơn) thì đây là phản bác ý kiến của bị đơn đối với yêu cầu của nguyên đơn chứ không phải là yêu cầu phản tố.
Thực chất, phản tố là quyền của bị đơn trong vụ án dân sự.
Thực chất việc phản tố của bị đơn là việc bị đơn khởi kiện ngược lại người đã kiện mình, nhưng được xem xét, giải quyết cùng với đơn kiện của nguyên đơn trong vụ án vì việc giải quyết yêu cầu của hai bên có liên quan chặt chẽ với nhau. Nếu yêu cầu của bị đơn là một việc hoàn toàn không liên quan đến đơn khởi kiện của nguyên đơn thì bị đơn phải khởi kiện thành một vụ án dân sự mới. Như vậy, yêu cầu phản tố của bị đơn chỉ phát sinh khi có việc nguyên đơn bị kiện và Tòa án có thẩm quyền đã thụ lý vụ án đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, sau đó, bị đơn cũng cho rằng nguyên đơn xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của mình nên có đơn yêu cầu Tòa án giải quyết cùng với việc giải quyết yêu cầu của nguyên đơn trong một vụ án. Trường hợp bị đơn có yêu cầu, Tòa án bác bỏ yêu cầu của nguyên đơn (như yêu cầu Tòa án không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn hoặc chỉ chấp nhận một phần yêu cầu của nguyên đơn), thì đây chỉ là phản bác ý kiến của bị đơn đối với yêu cầu của nguyên đơn chứ không phải là yêu cầu phản tố. Cùng với việc nộp ý kiến bằng văn bản về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn cho Tòa án, bị đơn có quyền đưa ra yêu cầu phản tố và đây được coi là yêu cầu khởi kiện của bị đơn đối với nguyên đơn.
Tóm lại, quyền phản tố có thể được hiểu là quyền của bị đơn về việc bị đơn khởi kiện lại nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập. Mục đích của yêu cầu phản tố là để bù trừ nghĩa vụ, khấu trừ nghĩa vụ hoặc loại trừ một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ đối với yêu cầu của nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập.