Như ở bài viết trước, thời hạn thẩm định nội dung là từ 9-14 tháng đối với đơn quốc gia và 12 tháng đối với đơn quốc tế kể từ ngày công bố đơn hợp lệ. Trong thời gian đó, công việc của những thẩm định viên như sau:
- Đánh giá khả năng bảo hộ của nhãn hiệu:
Đánh giá khả năng bảo hộ của nhãn hiệu theo quy định tại điều 72, 73 của Luật Sở hữu trí tuệ và điểm 39.2 của Thông tư 01/2007/TT-BKHCN, dựa vào các yếu tố từ chối bảo hộ kể cả trong trường hợp kết hợp với các yếu tố khác, các yếu tố không có khả năng phân biệt.
- Tra cứu từ nguồn thông tin tối thiểu:
Nguồn thông tin tra cứu tương đối đa dạng, đó là từ các nguồn: các đơn đăng ký nhãn hiệu đã đăng ký ở Việt Nam vẫn đang còn hiệu lực; các đơn đăng ký nhãn hiệu ở Việt Nam có ngày nộp đơn có ngày ưu tiên sớm hơn và đơn quốc tế chỉ định ở Việt Nam có ngày nộp đơn hoặc ngày ưu tiên sớm hơn đối với sản phẩm, dịch vụ trùng hoặc tương tự; các nhãn hiệu đã chấm dứt hiệu lực nhưng vẫn trong thời hạn chưa quá 5 năm, trừ trường hợp chứng minh được nhãn hiệu đã không còn sử dụng dùng cho sản phẩm trùng hoặc tương tự.
- Đánh giá khả năng phân biệt của dấu hiệu với các tài liệu đối chứng tìm được:
Mục đích và yêu cầu của việc đánh giá này là tìm kiếm tất cả thông tin từ nguồn thông tin tối thiểu liên quan đến dấu hiệu yêu cầu để đánh giá, so sánh, kết luận về tính phân biệt của dấu hiệu được nêu trong đơn.
So sánh với đối chứng tìm được về mặt nhãn hiệu và sản phẩm, dịch vụ xem nó có trùng hoặc tương tự gây nhầm lẫn với nhau không. Đối với nhãn hiệu cần đánh giá về cấu trúc, cách phát âm, ý nghĩa, hình thức thể hiện của nhãn hiệu. Đối với sản phẩm, dịch vụ cần đánh giá trên các tiêu chí là kênh phân phối, chủng loại, bản chất, chức năng, mục đích sử dụng.
- Kết luận về khả năng bảo hộ của nhãn hiệu:
Một dấu hiệu được coi là có thể bảo hộ làm nhãn hiệu nếu : dấu hiệu còn lại, sau khi loại bỏ các yếu tố từ chối bảo hộ, có khả năng phân biệt với các đối chứng hoặc sau khi loại bỏ sản phẩm, dịch vụ trùng hoặc tương tự, dấu hiệu có khả năng phân biệt với các đối chứng.
(còn tiếp)