Đạo nhạc là gì ? Làm cách nào để xác định một tác phẩm là đạo nhà từ tác phẩm khác ? Khi phát hiện tác phẩm bị đạo nhạc thì tác giả cần làm gì ?
Hiện nay thị trường âm nhạc Việt Nam đang nổi lên khá nhiều các ca sĩ trẻ mang phong cách mới lạ với chính những ca khúc mà mình sáng tác. Nhưng chính những ca khúc đó thì hết lần này đến lần khác bị tố là đạo nhạc. Về mặt cảm nhận của người nghe có thể cũng sẽ thấy có sự na ná giống nhau giữa các ca khúc bị tố và ca khúc được cho là bản gốc. Tuy nhiên đó chỉ là cảm nhận của những người không có chuyên môn về âm nhạc, vậy trên phương diện pháp lý thì sao?
Theo quy định của pháp luật hiện hành tại Luật sở hữu trí tuệ 2005, sửa đổi bổ sung năm 2009 thì quyền tác giả là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tác phẩm do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu mà đối tượng quyền tác giả bao gồm tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học.
Một bài hát được sáng tác ra là một tác phẩm âm nhạc được pháp luật bảo hộ quyền tác giả. Tác giả của ca khúc này có quyền đặt tên cho bài hát, đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm, có quyền không cho người khác sửa chữa, cắt xén hoặc chế lại lời, giai điệu của bài hát dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả.
Nếu ai đó lấy lại nhạc của bài hát của người khác, chỉnh sửa lại lời mà không được sự cho phép của tác giả, hành vi đó được xem là sao chép, vi phạm Khoản 6 Điều 25 Luật sở hữu trí tuệ 2005, sửa đổi năm 2009. Tác giả có quyền yêu cầu người đó phải gỡ bỏ bài hát của mình hoặc phải xin phép và trả tiền thù lao hợp lý cho tác giả, khởi kiện hoặc nhờ pháp luật can thiệp. Tùy theo tính chất và mức độ thực hiện, hành vi sao chép tác phẩm mà không xin phép tác giả có thể bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Theo quy định của pháp luật, cụ thể ở đây là quy định tại Điều 5 của Nghị định số 105/2006/NĐ-CP ngày 22 tháng 09 năm 2006 của chính phủ về “Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và quản lý nhà nước về sở hữu trí tuệ” thì cần phải có đủ các căn cứ sau đây:
- Đối tượng bị xem xét thuộc phạm vi các đối tượng đang được bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ.
- Có yếu tố xâm phạm trong đối tượng bị xem xét.
- Người thực hiện hành vi bị xem xét không phải là chủ thể quyền sở hữu trí tuệ và không phải là người được pháp luật hoặc cơ quan có thẩm quyền cho phép theo quy định tại các Điều 25, 26, 32, 33 của Luật Sở hữu trí tuệ.
- Hành vi bị xem xét xảy ra tại Việt Nam.
Hành vi bị xem xét cũng bị coi là xảy ra tại Việt Nam nếu hành vi đó xảy ra trên mạng internet nhưng nhằm vào người tiêu dùng hoặc người dùng tin tại Việt Nam.