Người sử dụng lao động có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trong những trường hợp sau đây:

- Chấm dứt hợp đồng lao động do người lao động đủ điều kiện về thời gian đóng bảo hiểm xã hội và hưởng lương hưu theo khoản 4 Điều 36 Bộ luật Lao động
Người sử dụng lao động có nghĩa vụ thông báo trước với người lao động bằng văn bản một thời gian hợp lý, thanh toán đầy đủ các khoản có liên quan đến quyền lợi mỗi bên, hoàn thành thủ tục xác nhận và trả lại sổ bảo hiểm xã hội và giấy tờ khác mà người sử dụng lao động đã giữ lại của người lao động theo Điều 47 Bộ luật lao động.
-Người lao động thường xuyên không hoàn thành công việc theo hợp đồng lao động;
-Người lao động bị ốm đau, tai nạn đã điều trị 12 tháng liên tục đối với người làm theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn, đã điều trị 06 tháng liên tục đối với người lao động làm theo hợp đồng xác định thời hạn và quá nửa thời hạn hợp đồng lao động đối với người làm theo hợp đồng theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng mà khả năng lao động chưa phục hồi. Khi sức khỏe của người lao động bình thường thì người lao động được xem xét để tiếp tục giao kết hợp đồng lao động.
-Do thiên tai, hỏa hoạn hoặc những lí do bất khả kháng khác theo quy định của pháp luật, mà người sử dụng lao động đã tìm mọi biện pháp khắc phục nhưng vẫn buộc phải thu hẹp sản xuất, giảm chỗ làm việc;
-Người lao động không có mặt tại nơi làm việc sau thời hạn quy định tại Điều 33 của Bộ luật này.
Với bất kì loại hợp đồng nào, người sử dụng lao động cũng có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trước thời hạn khi có một trong những lí do được quy định tại khoản 1 Điều 38 Bộ luật Lao động 2012 như đã liệt kê ở trên. Đồng thời, trước khi chấm dứt hợp đồng lao động, người sử dụng lao động phải thực hiện nghĩa vụ báo trước cho người lao động biết theo quy định tại khoản 2 Điều 38:
“Khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động người sử dụng lao động phải báo cho người lao động biết trước:
a)Ít nhất 45 ngày đối với hợp đồng lao động không xác định thời hạn;
b)Ít nhất 30 ngày đối với hợp đồng lao động xác định thời hạn;Ít nhất 03 ngày làm việc đối với trường hợp quy định tại điểm b khoản 1 Điều này và đối với hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng”.