Trong những trường hợp nào, người lao động (NLĐ) và người sử dụng lao động (NSDLĐ) phải bồi thường do chấm dứt hợp đồng lao động? Việc bồi thường do chấm dứt hợp đồng lao động của hai bên được pháp luật quy định như thế nào? Bài viết sau đây sẽ giải đáp những thắc mắc này.
Trước hết, về các trường hợp NLĐ và NSDLĐ phải bồi thường do chấm dứt hợp đồng lao động. Căn cứ vào Điều 41, Bộ luật Lao động 2012, đó là các trường hợp mà NLĐ và NSDLĐ đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật, tức là đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động không theo quy định tại Điều 37,38,39 của Bộ luật. Bạn có thể đọc thêm về quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của NLĐ tại đây và NSDLĐ tại đây.
Tiếp theo, về các quy định về bồi thường do chấm dứt hợp đồng, hay nói cách khác là do đơn phương chấm dứt hợp đồng trái pháp luật.
Theo Điều 42, Bộ luật Lao động 2012, NSDLĐ sẽ phải bồi thường như sau:
– Phải nhận NLĐ trở lại làm việc theo hợp đồng lao động đã giao kết và phải trả tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế trong những ngày NLĐ không được làm việc cộng với ít nhất 02 tháng tiền lương theo hợp đồng lao động.
– Trường hợp NLĐ không muốn tiếp tục làm việc, thì ngoài khoản tiền bồi thường trên NSDLĐ phải trả trợ cấp thôi việc. Trường hợp NSDLĐ không muốn nhận lại NLĐ và NLĐ đồng ý, thì ngoài các khoản tiền vừa đề cập, hai bên sẽ thỏa thuận khoản tiền bồi thường thêm nhưng ít nhất phải bằng 02 tháng tiền lương theo hợp đồng lao động để chấm dứt hợp đồng lao động.
– Trường hợp không còn vị trí, công việc đã giao kết trong hợp đồng lao động mà NLĐ vẫn muốn làm việc thì ngoài khoản tiền bồi thường đề cập ở đầu, hai bên thương lượng để sửa đổi, bổ sung hợp đồng lao động.
– Trường hợp vi phạm quy định về thời hạn báo trước thì phải bồi thường cho NLĐ một khoản tiền tương ứng với tiền lương của NLĐ trong những ngày không báo trước.
Có thể thấy, khi đơn phương chấm dứt hợp đồng trái pháp luật, NSDLĐ không những phải bồi thường mà còn có nghĩa vụ nhận NLĐ tiếp tục làm việc nếu họ muốn.
Theo Điều 43, Bộ luật Lao động 2012, NLĐ sẽ phải bồi thường như sau:
– Không được trợ cấp thôi việc và phải bồi thường cho NSDLĐ nửa tháng tiền lương theo hợp đồng lao động.
– Nếu vi phạm quy định về thời hạn báo trước thì phải bồi thường cho NSDLĐ một khoản tiền tương ứng với tiền lương của NLĐ trong những ngày không báo trước.
– Phải hoàn trả chi phí đào tạo cho người sử dụng lao động.
Tóm lại, cả NLĐ và NSDLĐ cần lưu ý các quy định về đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động để có thể tuân thủ, tránh phải chịu nghĩa vụ bồi thường như đã đề cập.
Hy vọng qua bài viết này, diendanphapluat.vn đã giúp bạn hiểu thêm về vấn đề bồi thường khi chấm dứt hợp đồng lao động!