Hợp đồng lao động bị vô hiệu khi nào? Hợp đồng lao động có ý nghĩa quan trọng. Nó xác định quan hệ lao động giữa người lao động và người sử dụng lao động. Như vậy ta cần hiểu sao cho đúng
1. Hợp đồng lao động vô hiệu khi nào?
– Hợp đồng lao động vô hiệu từng phần: Hợp đồng lao động vô hiệu từng phần khi nội dung của phần đó vi phạm pháp luật nhưng không ảnh hưởng đến các phần còn lại của hợp đồng. Ví dụ: Quy định người lao động làm việc 9 giờ/ngày.
- Thứ nhất: Toàn bộ nội dung của hợp đồng lao động trái pháp luật;
- Thứ hai: Người ký kết hợp đồng lao động không đúng thẩm quyền;
- Thứ ba: Công việc mà hai bên đã giao kết trong hợp đồng lao động là công việc bị pháp luật cấm;
Thứ tư: Nội dung của hợp đồng lao động hạn chế hoặc ngăn cản quyền thành lập, gia nhập và hoạt động công đoàn của người lao động.
– Cơ quan có thẩm quyền tuyên bố là Tòa án nhân dân.
2. Xử lý hợp đồng vô hiệu từng phần
Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được quyết định tuyên bố hợp đồng vô hiệu từng phần, người sử dụng LĐ và người LĐ phải sửa đổi, bổ sung hợp đồng LĐ bằng việc ký kết phụ lục hoặc giao kết hợp đồng mới theo quy định của pháp luật.
Hợp đồng lao động vô hiệu có tiền lương thấp hơn so với quy định của pháp luật về lao động, nội quy lao động, thỏa ước lao động tập thể đang áp dụng thì hai bên thỏa thuận lại. Người sử dụng lao động có trách nhiệm hoàn trả phần chênh lệch giữa tiền lương đã thỏa thuận với tiền lương trong hợp đồng theo thời gian thực tế làm việc của người lao động nhưng tối đa không quá 12 tháng.
3. Xử lý hợp đồng vô hiệu toàn bộ
Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định do người ký kết hợp đồng lao động không đúng thẩm quyền, cơ quan quản lý nhà nước về lao động nơi doanh nghiệp đóng trụ sở chính có trách nhiệm hướng dẫn các bên ký lại hợp đồng lao động.
Có toàn bộ nội dung của hợp đồng trái pháp luật bị hủy bỏ khi có quyết định tuyên bố hợp đồng lao động vô hiệu toàn bộ.
Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được quyết định tuyên bố hợp đồng vô hiệu toàn bộ do công việc mà hai bên đã giao kết trong hợp đồng là công việc bị pháp luật cấm;
Hoặc do nội dung của hợp đồng hạn chế hoặc ngăn cản quyền thành lập, gia nhập và hoạt động công đoàn của người lao động;
Hoặc do toàn bộ nội dung của hợp đồng quy định quyền lợi của người lao động thấp hơn so với quy định của pháp luật về lao động, nội quy lao động, thỏa ước lao động tập thể đang áp dụng thì người sử dụng lao động và người lao động có trách nhiệm giao kết hợp đồng lao động mới theo quy định của pháp luật về lao động.