Giao dịch dân sự bị vô hiệu khi rơi vào những trường hợp nào? Bộ luật Dân sự 2015 quy định như nào về giao dịch dân sự vô hiệu?
Giao dịch dân sự vô hiệu là gì?
Điều 116 Bộ luật Dân sự 2015 quy định: “Giao dịch dân sự là hợp đồng hoặc hành vi pháp lý đơn phương làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự.”
Giao dịch dân sự được hiểu là một sự kiện pháp lý làm phát sinh hậu quả pháp lý. Sự kiện này phải đáp ứng được 4 yêu cầu pháp lý cơ bản để phát sinh hiệu lực:
– Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập
– Chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện
– Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội
– Hình thức của giao dịch phù hợp với quy định của pháp luật.
Vậy nên khi sự kiện pháp lý này rơi vào một trong những trường hợp pháp luật quy định về giao dịch vô hiệu thì giao dịch này không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm giao dịch được xác lập.
Các trường hợp pháp luật quy định về giao dịch vô hiệu
Giao dịch dân sự vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội (Điều 123)
Giao dịch dân sự có mục đích, nội dung vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội thì vô hiệu.
Điều cấm của luật là những quy định của luật không cho phép chủ thể thực hiện một số hành vi nhất định.
Đạo đức xã hội là những chuẩn mực ứng xử chung trong đời sống xã hội, được cộng đồng thừa nhận và tôn trọng.
Giao dịch này đương nhiên bị coi là vô hiệu mà không phụ thuộc vào ý chí của chủ thể tham gia giao dịch. Tài sản và lợi tức phát sinh từ giao dịch đó có thể bị tịch thu, sung quỹ nhà nước.
Giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo (Điều 124)
Khi các bên xác lập giao dịch dân sự một cách giả tạo để che giấu một giao dịch dân sự khác thì giao dịch đó vô hiệu, còn giao dịch dân sự bị che giấu vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp giao dịch đó cũng vô hiệu theo quy định của Bộ luật này hoặc luật khác có liên quan.
Trường hợp xác lập giao dịch dân sự giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba thì giao dịch đó vô hiệu.
Trường hợp này xảy ra khá phổ biến khi một bên chủ thể để trốn tránh nghĩa vụ trả nợ bằng cách chuyển giao tài sản (thông qua hợp đồng tặng cho) sang cho người khác. Tuy nhiên trên thực tế, hợp đồng tặng cho đó không làm phát sinh quyền của người được tặng cho. Vậy thì hợp đồng đó vô hiệu.
Chủ thể giao dịch là người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện (Điều 125)
Trừ trường hợp:
– Người chưa đủ 6 tuổi, người mất năng lực hành vi dân sự thực hiện giao dịch nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu hàng ngày của mình;
– Đối với người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, giao dịch dân sự chỉ làm phát sinh quyền hoặc chỉ miễn trừ nghĩa vụ cho họ;
– Khi chủ thể đã thành niên hoặc khôi phục năng lực hành vi dân sự thì giao dịch sẽ được thừa nhận
Giao dịch dân sự vô hiệu do bị nhầm lẫn (Điều 126)
Khi có sự nhầm lẫn trong giao dịch dân sự làm cho mệt bên hoặc các bên không đạt được mục đích xác lập giao dịch đó mà cả hai bên đều không khắc phục được điều đó thì giao dịch vô hiệu.
Nhầm lẫn là khi các bên hiểu sai về nội dung giao dịch mà mình đang tham gia vào gây thiệt hại cho một trong hai bên. Nếu bên gây ra sự nhầm lẫn chứng minh được đây là vô ý thì giao dịch có thể bị tuyên là vô hiệu.
Tuy nhiên, nếu sự nhầm lẫn phát sinh từ sự cố ý của một bên thì khi đó giao dịch vô hiệu do lừa dối.
Giao dịch dân sự vô hiệu do bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép (Điều 127)
“Lừa dối” ở đây là hành vi cố ý của một bên nhằm khiến cho bên kia hiểu sai lệch về (i) chủ thể; (ii) tính chất của đối tượng; (iii) nội dung của giao dịch.
“Đe doạ”, “cưỡng ép” là hành vi cố ý của một bên; buộc bên còn lại phải tham gia giao dịch; nếu không thì sẽ bị thiệt hại về: tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín, nhân phẩm, tài sản của mình hoặc của người thân thích của mình.
Những giao dịch này chỉ bị vô hiệu khi có yêu cầu của bên bị lừa dối lên Toà án và được Toà tuyên vô hiệu.
Giao dịch dân sự vô hiệu do người xác lập không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình (Điều 128)
Tại thời điểm thực hiện giao dịch dân sự, chủ thể không nhận thức, làm chủ được hành vi của mình thì có quyền yêu cầu Toà án tuyên bố giao dịch đó là vô hiệu.
Giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức (Điều 129)
Về cơ bản, các chủ thể được tự do lựa chọn hình thức của giao dịch. Tuy nhiên vẫn có một số giao dịch pháp luật quy định bắt buộc phải thể hiện bằng văn bản, phải có chứng thực, chứng nhận, đăng kí hoặc xin phép mà các bên không tuân thủ quy định này mới bị vô hiệu.
Các trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu đã được pháp luật quy định rất rõ ràng, đảm bảo hiệu quả thực thi của pháp luật và quyền, lợi ích hợp pháp của các bên có liên quan.