Hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa là một dạng hợp đồng được quy định rõ nét trong Luật thương mại 2005.
1. Khái niệm
Theo quy định của điều 155 Luật thương mại 2005 “Ủy thác mua bán hàng hóa là hoạt động thương mại, theo đó bên nhận uỷ thác thực hiện việc mua bán hàng hoá với danh nghĩa của mình theo những điều kiện được thoả thuận với bên uỷ thác và được nhận thù lao uỷ thác.”
Quan hệ ủy thác mua bán hàng hóa có thể bao gồm ủy thác mua và ủy thác bán hàng hóa.
Quan hệ ủy thác mua bán hàng hóa được xác lập trên cơ sở của hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa. Hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa có thể được hiểu là sự thỏa thuận giữa các bên trong đó bên nhận uỷ thác thực hiện việc mua bán hàng hoá với danh nghĩa của mình theo những điều kiện được thoả thuận với bên uỷ thác và bên ủy thác có nghĩa vụ trả thù lao cho việc ủy thác của bên được ủy thác
2. Đặc điểm
a) Chủ thể hợp đồng
Trong hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa, bên nhận ủy thác phải là thương nhân kinh doanh mặt hàng phù hợp với hàng hóa được ủy thác và thực hiện mua bán hàng hóa theo những điều kiện đã thỏa thuận với bên ủy thác. Thêm nữa, theo quy định của Điều 161 Luật thương mại 2005 thương nhân nhận ủy thác có thể nhận ủy thác mua bán hàng hóa cho nhiều bên ủy thác khác nhau. Bên ủy thác là bên giao cho bên nhận ủy thác thực hiện việc mua bán hàng hóa theo yêu cầu của mình và bên này không nhất thiết phải có tư cách thương nhân.
b) Nội dung hợp đồng
Có thể thấy rằng, hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa có điểm giống với hợp đồng đại diện cho thương nhân. Đó là bên nhận ủy thác trong hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa cũng được bên ủy thác ủy quyền thực hiện hoạt động thương mại thế nhưng hoạt động thương mại này lại được giới hạn trong phạm vi thực hiện hoạt động mua bán hàng hóa cụ thể nào đó với bên thứ ba.
Mặc dù trong quan hệ ủy thác mua bán hàng hóa, bên ủy thác cũng thực hiện hoạt động mua bán hàng hóa theo sự ủy quyền và lợi ích của bên ủy thác đề lấy thù lao nhưng khi giao dịch với bên thứ ba, không giống như trong quan hệ đại diện cho thương nhân, bên ủy thác sẽ nhân danh chính mình để thực hiện giao dịch. Có nghĩa là, những hành vi bên nhận ủy thác đẫ thực hiện trong giao dịch sẽ mang lại hậu quả pháp lý cho chính bên này chứ không phải cho bên ủy thác.
c) Đối tượng hợp đồng
Đối tượng của hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa là công việc mua bán hàng hóa do bên nhận ủy thác tiến hành theo sự ủy quyền của bên ủy thác. Hàng hóa được mua bán theo yêu cầu của bên ủy thác là đối tượng của hợp đồng mua bán giao kết giữa bên nhận ủy thác với bên thứ ba chứ không phải là đối tượng của hợp đồng ủy thác.
d) Hình thức hợp đồng
Tại điều 159 Luật thương mại 2005 quy định “Hợp đồng uỷ thác mua bán hàng hoá phải được lập thành văn bản hoặc bằng hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương.”