Đồng phạm là hình thức phạm tội có tổ chức, có mức độ nguy hiểm cao cho xã hội, và được pháp luật quy định là tình tiết để định khung tăng nặng khi truy cứu trách nhiệm hình sự.
Điều 20. Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định về đồng phạm như sau:
“1. Đồng phạm là trường hợp có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm.”
Người ta dựa vào các tiêu chí khác nhau để nhân loại đồng phạm thành các hình thức khác nhau:
a) Căn cứ vào dấu hiệu chủ quan, đồng phạm được phân loại thành đồng phạm có thông mưu trước và đồng phạm không có thông mưu trước.
– Đồng phạm không có thông mưu trước: là hình thức đồng phạm trong đó giữa những người đồng phạm không có sự bàn bạc, thỏa thuận với nhau trước về việc tham gia thực hiện tội phạm.
Ví dụ: Trong một vụ trộm cắp tài sản, A nhờ B là xe ôm chở đến ngôi nhà chủ nhân đi vắng để thực hiện hành vi trộm cắp, đến nơi A nói với B bên trong nhà có nhiều tài sản có giá trị và rủ B cùng tham gia, B đồng ý. Cả hai cùng thực hiện hành vi trộm cắp đó là đồng phạm không có sự thông mưu trước.
– Đồng phạm có thông mưu trước: là hình thức đồng phạm trong đó những người đồng phạm có sự bàn bạc, thỏa thuận trước với nhau về tội phạm cùng tham gia thực hiện.
Ví dụ: Trường hợp A và B là bạn, cùng thỏa thuận trước ở nhà để chuẩn bị thực hiện hành vi trộm cắp tài sản thì được coi là đồng phạm có thông mưu trước.
b) Căn cứ vào dấu hiệu khách quan, đồng phạm được phân loại thành đồng phạm giản đơn và đồng phạm phức tạp.
– Đồng phạm giản đơn: là hình thức đồng phạm trong đó tất cả những người cùng người tham gia vào việc thực hiện tội phạm đều có vai trò là người thực hành (người đồng thực hành).
Ví dụ: A rủ B và C vào công ty lấy trộm một thùng hàng có giá trị.
– Đồng phạm phức tạp: là hình thức đồng phạm trong đó có một hoặc một số người tham gia có vai trò là người thực hành, còn những người khác giữ vai trò tổ chức, xúi giục hoặc giúp sức.
Ví dụ: A vạch rõ kế hoạch vào công ty lấy trộm thùng hàng có giá trị, rồi sai đàn em của mình là B và C thực hiện kế hoạch. Trong đó B là người canh giữ bên ngoài và chuẩn bị xe để tẩu thoát, còn C là người trực tiếp vào trong kho lấy trộm.
c) Căn cứ vào những đặc điểm khách quan và chủ quan của quan hệ giữa những người đồng phạm, đồng phạm được phân đồng phạm có tổ chức (phạm tội có tổ chức).
Phạm tội có tổ chức: là hình thức đồng phạm đặc biệt mà định nghĩa pháp lý của nó được quy định tại khoản 3 Điều 20 Bộ luật Hình sự năm 1999: “Phạm tội có tổ chức là trường hợp đồng phạm có sự câu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm”. Thường là sự kết hợp của đồng phạm có thông mưu trước và đồng phạm phức tạp.