Phá sản là hiện tượng kinh tế khách quan trong nền kinh tế thị trường mà hậu quả của nó không chỉ ảnh hưởng đến bản thân doanh nghiệp và những người lao động trong doanh nghiệp mà còn tác động lớn đến các chủ thể khác là chủ nợ, đối tác và các thành phần khác trong nền kinh tế. Nhiều người nhầm lẫn giữa hai khái niệm phá sản và mất khả năng thành toán. Vậy còn mất khả năng thanh toán là gì, có mối liên hệ gì với phá sản ?
Khoản 1 Điều 4 Luật phá sản năm 2014 đưa ra khái niệm doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán như sau:
“Doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán là doanh nghiệp, hợp tác xã không thực hiện nghĩa vụ thanh toán khoản nợ trong thời hạn 03 tháng kể từ ngày đến hạn thanh toán”.
So với Luật Phá sản 2004 quy định: “Doanh nghiệp, hợp tác xã không có khả năng thanh toán được các khoản nợ đến hạn khi chủ nợ có yêu cầu thì coi là lâm vào tình trạng phá sản” thì Luật Phá sản năm 2014 phân biệt rạch ròi giữa hai khái niệm là “mất khả năng thanh toán” và “phá sản”. Theo đó, doanh nghiệp được cho là mất khả năng thanh toán “khi không thực hiện nghĩa vụ thanh toán khoản nợ trong thời hạn ba tháng kể từ ngày đến hạn thanh toán”, trong khi đó phá sản là “tình trạng của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán và bị tòa án nhân dân ra quyết định tuyên bố phá sản” (khoản 2 Điều 4)
Như vậy, chỉ khi tòa án ra quyết định tuyên bố phá sản thì doanh nghiệp mất khả năng thanh toán mới được coi là ở trong tình trạng phá sản. Hơn nữa, nhà lập pháp đã quy định một giai đoạn chờ là ba tháng kể từ ngày khoản nợ liên quan đến hạn, qua đó tạo thêm cơ hội để doanh nghiệp, hợp tác xã thanh toán nợ và giảm áp lực “đe dọa” phá sản. Tình trạng mất khả năng thanh toán là cơ sở để những chủ thể có quyền và nghĩa vũ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản và là căn cứ để Tòa án ra quyết định mở thủ tục phá sản. Việc mất khả năng thanh toán không nhất thiết sẽ dẫn đến việc phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã.