Doanh nghiệp vừa và nhỏ là một cụm từ thường nghe thấy hiện nay. Tuy nhiên những điều luật quy định về những quy định này thì chưa rõ ràng và cụ thể. Chỉ có thông tư số 16/2013/TT-BTC, hướng dẫn thực hiện việc gia hạn, giảm một số khoản thu ngân sách nhà nước theo Nghị quyết số 02/NQ-CP ngày 7 tháng 1 năm 2013 của chính phủ về một số giải pháp tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, hỗ trợ thị trường, giải quyết nợ xấu. Thì doanh nghiệp vừa và nhỏ được quy định như sau:
Doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ, bao gồm cả chi nhánh, đơn vị trực thuộc nhưng hạch toán độc lập, hợp tác xã (sử dụng dưới 200 lao động làm việc toàn bộ thời gian năm và có doanh thu không quá 20 tỷ đồng) (gọi chung là doanh nghiệp quy mô vừa và nhỏ).
Doanh nghiệp vừa và nhỏ là cơ sở kinh doanh đã đăng ký kinh doanh theo quy định pháp luật, được chia thành ba cấp: siêu nhỏ, nhỏ, vừa theo quy mô tổng nguồn vốn (tổng nguồn vốn tương đương tổng tài sản được xác định trong bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp) hoặc số lao động bình quân năm (tổng nguồn vốn là tiêu chí ưu tiên), cụ thể như sau:
- Doanh nghiệp siêu nhỏ: 10 người lao động trở xuống trong cả 3 khu vực kinh tế.
- Doanh nghiệp nhỏ: từ trên 10 người lao động đến 200 người với nguồn vốn 20 tỷ đồng trở xuống ở Khu vực I và II; từ trên 10 người lao động đến 50 người lao động và nguồn vốn 10 tỷ đồng trở xuống ở khu vực III.
- Doanh nghiệp vừa: có từ trên 200 đến 300 người lao động nguồn vốn từ trên 20 đến 100 tỷ đồng ở Khu vực I,II và có từ trên 50 đến 100 người lao động, nguồn vốn từ trên 10 đến 50 tỷ đồng ở Khu vực III.
Theo Nghị định 56/2009/NĐ-CP:
Tùy theo tính chất, mục tiêu của từng chính sách, chương trình trợ giúp mà cơ quan chủ trì có thể cụ thể hóa các tiêu chí nêu trên cho phù hợp.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành và các cơ quan liên quan điều tra, tổng hợp và công bố số liệu thống kê về doanh nghiệp nhỏ và vừa hàng năm theo định nghĩa về doanh nghiệp nhỏ và vừa quy định theo nghị định này.