Điểm mới của Luật Doanh nghiệp 2014. Liên quan đến chế định về “Công ty TNHH một thành viên”, Luật doanh nghiệp 2014 đã có bước tiến vượt bậc so với Luật Doanh nghiệp 2005, tạo điều kiện thuận lợi cho việc đăng ký cũng như phát triển doanh nghiệp theo mô hình này. Cụ thể phải kể đến những điểm tiến bộ sau :
Thứ nhất, không thể không nói đến vấn đề về vốn :
Luật Doanh nghiệp 2014 đã cho phép Công ty TNHH một thành viên được giảm Vốn điều lệ thay bằng quy định tại Điều 76 Luật doanh nghiệp 2005 quy định Công ty TNHH một thành viên không được giảm Vốn điều lệ, cụ thể Khoản 1 Điều 87 Luật doanh nghiệp 2014 quy định như sau:
“ Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên thay đổi vốn điều lệ trong các trường hợp sau đây:
a) Hoàn trả một phần vốn góp trong vốn điều lệ của công ty nếu đã hoạt động kinh doanh liên tục trong hơn 02 năm, kể từ ngày đăng ký doanh nghiệp và bảo đảm thanh toán đủ các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác sau khi đã hoàn trả cho chủ sở hữu;
b) Vốn điều lệ không được chủ sở hữu thanh toán đầy đủ và đúng hạn theo quy định tại Điều 74 của Luật này”.
Như vậy, các công ty TNHH một thành viên đã được cho phép giảm vốn điều lệ của mình trong những trường hợp cụ thể nêu trên. Điều này tạo sự linh hoạt trong việc xây dựng cũng như duy trì vốn điều lệ của công ty.
Thứ hai, về cơ cấu tổ chức:
Luật Doanh nghiệp 2014 đã quy định rõ về cơ cấu tổ chức của Công ty TNHH một thành viên đối với cá nhân hoặc tổ chức làm chủ sở hữu. Đặc biệt đối với mô hình tổ chức làm chủ sở hữu đã có sự khác biệt đáng kể. Cụ thể theo quy định của Điều 78 Luật DN 2014 :
“1. Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do tổ chức làm chủ sở hữu được tổ chức quản lý và hoạt động theo một trong hai mô hình sau đây
:a- Chủ tịch công ty, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc và Kiểm soát viên;
b- Hội đồng thành viên, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc và Kiểm soát viên
Trường hợp Điều lệ công ty không quy định thì Chủ tịch Hội đồng thành viên hoặc Chủ tịch công ty là người đại diện theo pháp luật của công ty.
Trường hợp Điều lệ công ty không quy định khác, thì chức năng, quyền và nghĩa vụ của Hội đồng thành viên, Chủ tịch công ty, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc và Kiểm soát viên thực hiện theo quy định của Luật này.”
Với quy định này tạo điều kiện cho các doanh nghiệp được lựa chọn mô hình kinh doanh cho phù hợp với điều kiện của doanh nghiệp mình, phù hợp với nguyên tắc tự chủ trong kinh doanh.
Thứ ba, về thời hạn góp vốn: Theo quy định tại Khoản 2 Điều 74 của Luật này thì thời hạn là 90 ngày kể từ ngày nhận được GCNĐKDN, trong khi đó theo Luật doanh nghiệp 2005 là 36 tháng. Với quy định mới, thời hạn góp vốn này là giống nhau giữa các loại hình doanh nghiệp tạo sự bình đẳng cho các doanh nghiệp trong quá trình hoạt động kinh doanh.