Đại diện là việc cá nhân, pháp nhân (sau đây gọi chung là người đại diện) nhân danh và vì lợi ích của cá nhân hoặc pháp nhân khác (sau đây gọi chung là người được đại diện) xác lập, thực hiện giao dịch dân sự (Khoản 1 điều 134 Bộ Luật dân sự 2015).
Trong nhiều trường hợp, cá nhân không thể tự mình tham gia các giao dịch dân sự do nhiều trường hợp khác nhau thì có thể ủy quyền cho người khác đại diện mình tham gia quan hệ ấy. Cá nhân có thể xác lập giao dịch dân sự thông qua người đại diện. Tuy nhiên trong một số trường hợp thì không có đại diện và họ bắt buộc phải đi như kết hôn…
Đối với người đại điện thì họ phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ bởi vì họ có thể tham gia các quan hệ pháp luật quy định, đồng thời có thể nhẫn thức được rằng họ đang làm gì và có ảnh hưởng đến người được đại diện hay không? Đây là điều quan trọng bởi nó có thể ảnh hưởng đến bên được ủy quyền hoặc công việc được đại diện.
Đại diện thường được xác lập ủy quyền giữa người được đại diện và người đại diện (sau đây gọi là đại diện theo ủy quyền); theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, theo điều lệ của pháp nhân hoặc theo quy định của pháp luật.
Công việc của người đại diện là thay mặt người được đại diện xác lập một giao dịch, thực hiện một nghĩa vụ, công việc nào đó. Phạm vi đại điện được xác lập theo căn cứ: Quyết định của cơ quan có thẩm quyền; Điều lệ của pháp nhân; Nội dung ủy quyền; Quy định khác của pháp luật. Một pháp nhân có người đại diện và được ghi vào điều lệ của pháp nhân đó.
Đại diện có thể được hình thành do sự thỏa thuận của các bên: A ủy quyền B đi bán hàng; Đai diện cho pháp nhân hoặc đại diện theo pháp luật: Cha mẹ đại diện cho con cái…
Đại diện chấm dứt khi con đủ 18 tuổi hoặc công việc hoàn thành, thời hạn đại diện đã hết, các bên thỏa thuận chấm dứt việc đại diện.