Tôi được biết ngoài vợ và chồng thì còn các chủ thể khác có thể được yêu cầu Toà án giải quyết ly hôn? Tuy nhiên tôi không hiểu tại sao pháp luật lại quy định như vậy. Làm như thế liệu có ảnh hưởng đến quyền bình đẳng và tư quyết định giữa vợ và chồng không? Nhờ luật sư giải đáp giúp tôi
hhidoko***@gmail.com
Trả lời :
Cảm ơn bạn đã gửi câu hỏi đến chuyên mục Tư vấn luật Lao động. Luật sư xin trả lời bạn như sau
Theo điều 51 Luật Hôn nhân và gia đình 2014:
Quyền yêu cầu giải quyết ly hôn
- Vợ, chồng hoặc cả hai người có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn.
- Cha, mẹ, người thân thích khác có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn khi một bên vợ, chồng do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình, đồng thời là nạn nhân của bạo lực gia đình do chồng, vợ của họ gây ra làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của họ.
- Chồng không có quyền yêu cầu ly hôn trong trường hợp vợ đang có thai, sinh con hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi.
Theo quy định của Điều 51 trên thì đối tượng được quyền yêu cầu tòa án giải quyết ly hôn gồm những chủ thể trên. Pháp luật quy định như vậy bởi:
1. Vợ, chồng
Theo khoản 1 Điều 36, Hiến pháp 2013 quy định : “ Nam, nữ có quyền kết hôn, ly hôn. Hôn nhân theo nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau.”
Theo khoản 1 Điều 51 thì vợ, chồng hoặc cả hai người có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn. Quy định này nhằm thể hiện quyền bình đẳng giữa nam và nữ, giữa vợ và chồng. Trong quá trình hôn nhân, khi tình cảm vợ chồng đã hết dẫn đến tình trạng vợ chồng không thể chung sống thì cả vợ và chồng đều có quyền yêu cầu tòa án cho họ ly hôn, chấm dứt quan hệ vợ chồng trước pháp luật.
Quy định này xuất phát từ nguyên tắc : Hôn nhân tự nguyện, tiến bộ. Tự nguyện theo Luật là tự nguyện cả trong việc kết hôn và tự nguyện ly hôn, do đó, việc ly hôn phải do chính vợ chồng quyết định, không ai có quyền làm thay việc này của vợ, chồng.
2. Cha, mẹ, người thân thích khác
Khởi điểm của quy định điều luật này là từ một thực tế đời sống được lấy ra làm ví dụ trong kỳ họp soạn thảo luật Hôn nhân và gia đình 2014
Năm 1998, ở Vũng Tàu. Có một đôi vợ chồng gửi đơn đến Tòa án yêu cầu Tòa giải quyết ly hôn cho con của họ. Lý do mà đôi vợ chồng đưa ra là : Con của họ sau khi lấy chồng một thời gian thì bị tâm thần. Lúc này người chồng đã đối xử ngược đãi với vợ của mình. Anh ta còn lấy hết tài sản mà vợ chồng đã cùng làm được trước khi cô vợ bị tâm thần, và anh ta không muốn ly hôn với vợ của mình. Nhưng ngay sau nhận được đơn yêu cầu đó thì TAND cấp tỉnh không biết giải quyết làm sao và đã gửi thư lên TAND tối cao để xem xét về vấn đề này. Rõ ràng những luật Hôn nhân và gia đình trước đây, quyền yêu cầu giải quyết ly hôn chỉ có thể vợ chồng yêu cầu ly hôn. Trong đó trường hợp này người chồng lại không yêu cầu ly hôn. Chính vì sự hạn chế chủ thể trong vấn đề quyền yêu cầu ly hôn này mà trước luật Hôn nhân và gia đình 2014 đã gặp phải rất nhiều bất cập giống như ví dụ nêu trên
Trước sự bất cập đó, khi làm luật Hôn nhân và gia đình 2014 , đại biểu Quốc hội Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam- đại diện cho chị em phụ nữ đã lên tiếng nhiều nhất về vấn đề này để được bảo vệ quyền lợi.
Nạn nhân của hành vi bạo lực gia đình ở Việt Nam hiện nay nhiều nhất vẫn là phụ nữ và trẻ em ( vẫn có trường hợp là đàn ông bị bạo lực gia đình tuy nhiên tỷ lệ đấy thấp hơn rất nhiều) . Chính vì thế mà đại biểu Quốc hội Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam đã phát biểu rất nhiều và cố gắng đưa quy định này vào Luật định. Tất nhiên điều luật này ra đời là để bảo vệ quyền lời cho những người mất năng lực hành vi dân sự (hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức) tức là bao gồm cả nữ giới và nam giới. Tuy nhiên trên thực tế chủ thể được bảo vệ nhiều nhất vẫn là phụ nữ. Sự phân tích trên đây là để hiểu rộng hơn những vấn đề mà điều luật quy định.
- Đưa được quy định này vào trong luật nhằm hạn chế hành vi bạo lực gia đình. Quy định theo hướng mở rộng quyền yêu cầu này là cách bảo vệ quyền và lợi ích cho người yếu thế ( tức người tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức) ,tuy nhiên đây không phải quy định mở rộng quyền yêu cầu ly hôn một cách tùy tiện. Không phải cứ cha me, người thân là có quyền yêu cầu giải quyết ly hôn cho con cái. Mà chỉ khi người vợ hoặc chồng đó là nạn nhân của bạo lực gia đình do chồng, vợ của họ gây ra làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của họ.
Vậy mở rộng quyền yêu cầu tuy nhiên đối tượng được mở rộng cũng chỉ được yêu cầu khi bắt buộc đáp ứng đủ cả 3 yếu tố sau
+ Cha , me hoặc người thân thích
+ Vợ hoặc chồng mắc bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình
+ Người mắc bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức đó phải là nạn nhân của bạo lực gia đình do chồng, vợ của họ gây ra làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của họ.
3. Hạn chế quyền yêu cầu ly hôn đối với người chồng
Theo khoản 3 điều 51 : “Chồng không có quyền yêu cầu ly hôn trong trường hợp vợ đang có thai, sinh con hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi.”
Rõ rang vấn đề hạn chế quyền yêu cầu ly hôn chỉ đặt ra duy nhất đối với người chồng chứ không đặt ra với người vợ. Tưởng chừng việc này là vô lý, không bình đẳng đối với nam giới. Tuy nhiên quy định này rất phù hợp nhằm bảo về quyền và lợi ích cho phu nữ và trẻ em và thể hiện nguyên tắc bảo vệ quyền của phụ nữ và trẻ em
Việt Nam đều tham gia 2 công ước quốc tế : Công ước quốc tế về quyền trẻ em và Công ước về Xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW)
Đây chính là một cam kết của Việt Nam (quốc gia thành viên) trong cả hai cam kết này về lĩnh vực Hôn nhân và gia đình bảo vệ quyền phụ nữ và trẻ em bằng quy phạm rất đặc thù ưu tiên cho phụ nữ.
Cụ thể trong điều luật này bảo vệ quyền lợi của phụ nữ ( người vợ) cũng sẽ bảo vệ cả quyền lợi của trẻ em . Vì người mẹ mang thai cần được khỏe mạnh. Khỏe mạnh ở đây không chỉ được hiểu là khỏe về thể chất mà còn được hiểu là khỏe cả về tinh thần.
Nếu một bà mẹ đang trong thời kì mang thai mà phải chịu sức ép của hậu quả ly hôn thì sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của bà mẹ đó. Các chuyên gia y tế đã nghiên cứu và cho ra kết luận: Nếu một bà mẹ có sức khỏe tinh thần không tốt sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình tiết sữa và nuôi con bằng sữa mẹ
Việc cấm người chồng ly hôn trong trường hợp vợ đang có thai, sinh con hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi chính là cách thức mà các nhà làm luật Việt Nam bảo vệ sức khỏe và quyền lợi của phụ nữ và trẻ em.
Hy vọng qua câu trả lời này bạn đã được giải đáp thắc mắc. Trường hợp bạn cần luật sư hôn nhân gia đình tư vấn chi tiết hơn, vui lòng liên hệ 0972817699.