Theo Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 thì ta có thẻ chia chung sống như vợ chồng thành hai dạng là chung sống như vợ chồng không trái pháp luật và chung sống như vợ chồng trái pháp luật. Chung sống như vợ chồng không trái pháp luật là việc nam, nữ chung sống như vợ chồng không đăng kí kết hôn mặc dù có đủ điều kiện kết hôn.
Các trường hợp chung sống như vợ chồng không trái pháp luật được quy định như sau:
+ Nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng không đăng kí kết hôn mặc dù đủ điều kiện đăng kí kết hôn. Đây là trường hợp pháp luật không công nhận cũng không cấm. Nguyên nhân chủ yếu là do tâm lí, lối sống của mỗi cặp đôi là khác nhau.
+ Chung sống như vợ chồng giữa nam và nữ khi một bên hoặc cả hai bên mất năng lực hành vi dân sự.
Theo Điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 có quy định về điều kiện kết hôn, trong đó nam hoặc nữ không thuộc trường hợp mất năng lực hành vi dân sự. Tuy nhiên đối với sống chung như vợ chồng thì không có quy định về trường hợp này.
Một người bị coi là mất năng lực hành vi dân sự khi Tòa án tuyên bố người đó bị mất năng lực hành vi dân sự. Như vậy, việc sống chung với người mất năng lực hành vi dân sự với nhau hay một trong hai người mất năng lực hành vi dân sự là rất khó xác định. Vì vậy việc sống chung này được coi như việc sống chung giữa các cặp đôi bình thường.
+ Chung sống như vợ chồng giữa những người cùng giới tính.
Pháp luật hiện hành không công nhận hôn nhân cùng giới (Khoản 2 Điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014). Luật chỉ không công nhận chứ không cấm. Vì vậy trên thực tế có rất nhiều cặp đôi cùng giới tính chung sống với nhau, thâm chí họ còn tổ chức đám cưới một cách công khai. Chính vì như thế Nhà nước ta, một mặt, không thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới, mặt khác, cũng không cấm họ chung sống như vợ chồng.