Vì nhiều lý do khác nhau và tại các thời điểm khác nhau, người phạm tội bị mất khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình, trong tất cả các trường hợp này, người phạm tội đều phải được đưa vào một cơ sở điều trị chuyên khoa, hoặc giao cho gia đình hoặc ngời giám hộ trông nom dưới sự giám sát của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Cụ thể, tại Điều 43 Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009), các trường hợp này bao gồm:
– Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi. Như vậy, chỉ cần chỉ cần người đó mất khả năng nhận thức hoặc
– Người phạm tội có khả năng nhận thức hoặc điều khiển hành vi của mình, nhưng trước khi bị kết án đã mất các khả năng trên. Trong trường hợp này, người phạm tội sẽ được đưa vào một cơ sở điều trị chuyên khoa. Tuy nhiên, đây cũng chính là kẽ hở của pháp luật để những người có điều kiện lợi dụng và không phải chịu trách nhiệm hình sự. Sau khi khỏi bệnh, người phạm tội có thể vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự, tuy nhiên, nếu khi đó người phạm tội đã trở nên già cả, hoặc mắc một bệnh nan y giai đoạn cuối hoặc hết thời hiệu thi hành bản án, họ sẽ không phải chịu trách nhiệm hình sự nữa.
– Người phạm tội đang chấp hành hình phạt mà bị bệnh tới mức mất khả năng nhận thức hoặc điều khiển hành vi thì người đó sẽ được tạm dừng chấp hành hình phạt và được đưa vào một cơ sở chuyên khoa để khám chữa bệnh. Những trường hợp này xảy ra chủ yếu là do người phạm tội chịu sức ép tâm lý quá lớn trong quá trình chấp hành hình phạt, hoặc do các chấn động tâm lý khác (như nghe tin người nhà mất…).
Trong tất cả các trường hợp trên, Viện Kiểm sát hoặc Tòa án đều phải căn cứ vào kết luận của Hội đồng giám định pháp y để quyết định có nên đưa người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội/người phạm tội vào cơ sở chuyên khoa hay không.