Pháp luật Thương mại quy định về “giá trị của khoản bồi thường” trong trường hợp này như sau:
“Giá trị của khoản bồi thường là một tháng thù lao đại lý trung bình trong thời gian nhận đại lý cho mỗi năm mà bên đại lý làm đại lý cho bên giao đại lý. Trong trường hợp thời gian đại lý dưới một năm thì khoản bồi thường được tính là một tháng thù lao đại lý trung bình trong thời gian nhận đại lý.”
Thù lao đại lý thường được trả dưới hình thức hoa hồng hoặc chênh lệch giá.
Có nghĩa, phần thù lao sẽ phụ thuộc nhiều vào số lượng hàng bán được trong tháng, nên giữa các tháng sẽ không tương đương nhau. Chính vì vậy, các nhà làm luật đưa ra khái niệm “thù lao đại lý trung bình” để tránh trường hợp bên đại lý đòi hỏi khoản thù lao tương đượng với tháng có thù lao cao nhất, hay ngược lại, bên giao đại lý chỉ trả khoản thù lao tương đương với tháng có thù lao thấp nhất. Như vậy, công thức tính số tiền trên là:
Giá trị “bồi thường” = (thù lao tháng 1+thù lao tháng 2+⋯+thù lao tháng 12 )/12
Nếu thời gian đại lý dưới 1 năm thì khoản tiền đó được tính:
Giá trị “bồi thường” = tổng thù lao các tháng / tổng số tháng làm đại lý
Tuy nhiên, quy định trên lại hạn chế quyền tự do thỏa thuận giữa các bên.
Pháp luật thương mại quy định “cứng” khoản tiền đó là “một tháng” thù lao trung bình. Thế nhưng thực tế, có những trường hợp đại lý có cơ sở để yêu cầu nhiều hơn một tháng thù lao trung bình và bên giao đại lý cũng chấp nhận điều đó. Việc cứng nhắc quy định của pháp luật một mặt nào đó sẽ ảnh hưởng đến quyết định của hai bên khi yêu cầu bên còn lại thực hiện quyền của mình. Thiết nghĩ quy định của pháp luật cần linh hoạt hơn để phù hợp với sự phát triển của xã hội.