Giám định sở hữu trí tuệ là một hoạt động có tính chuyên môn cao và đặc thù. Giám định sở hữu trí tuệ thường được sử dụng trong hoạt động kiểm tra tính phân biệt giữa các đối tượng của quyền sở hữu công nghiệp. Pháp luật quy định về vấn đề này như thế nào?
1. Luật sở hữu trí tuệ quy định:
Điều 201 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 sửa đổi bổ sung năm 2009 quy định về vấn đề này như sau:
Giám định là việc tổ chức, cá nhân quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều này sử dụng kiến thức, nghiệp vụ chuyên môn để đánh giá, kết luận về những vấn đề có liên quan.
Doanh nghiệp, hợp tác xã, đơn vị sự nghiệp, tổ chức hành nghề luật sư, trừ tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài hành nghề tại Việt Nam đáp ứng các điều kiện sau đây được thực hiện hoạt động giám định về:
a) Có nhân lực, cơ sở vật chất – kỹ thuật đáp ứng yêu cầu tổ chức hoạt động giám định theo quy định của pháp luật;
b) Có chức năng thực hiện hoạt động giám định được ghi nhận trong Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động;
c) Người đứng đầu tổ chức hoặc người được người đứng đầu tổ chức ủy quyền có Thẻ giám định viên.
2. Điều kiện được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp Thẻ “giám định viên” sở hữu trí tuệ:
- Là công dân Việt Nam, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ;
- Thường trú tại Việt Nam;
- Có phẩm chất đạo đức tốt;
- Có trình độ đại học trở lên về chuyên ngành phù hợp với lĩnh vực đề nghị cấp thẻ giám định, đã qua thực tế hoạt động chuyên môn trong lĩnh vực đó từ năm năm trở lên và đạt yêu cầu kiểm tra nghiệp vụ về giám định.
3.Thẩm quyền giải quyết
Cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý hành vi xâm phạm quyền có quyền trưng cầu giám định về sở hữu trí tuệ khi giải quyết vụ việc mà mình đang thụ lý.
Chủ thể quyền và tổ chức, cá nhân khác có liên quan có quyền yêu cầu để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Chính phủ quy định cụ thể về tổ chức và hoạt động giám định này .”