Trái ngược với kết hôn là mở đầu cho một cuộc hôn nhân thì ly hôn lại là sự kiện pháp lý làm chấm dứt một hôn nhân không thể hàn gắn. Nguyên tắc hôn nhân tự nguyên tiến bộ là một trong những nguyên tắc bảo đảm được quyền tự do hôn nhân, cho phép nam và tự được quyền tự do kết hôn, đồng thời cũng được tự do ly hôn. Tuy nhiên, có phải trong mọi trường hợp vợ hoặc chồng đều được tự do ly hôn? Pháp luật Việt Nam quy định một số hạn chế về quyền ly hôn của người chồng, cụ thể tại khoản 3 Điều 51 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định về Quyền yêu cầu giải quyết ly hôn:
“3. Chồng không có quyền yêu cầu ly hôn trong trường hợp vợ đang có thai, sinh con hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi.”
Vậy nếu vợ chồng đang có con nhỏ dưới 12 tháng tuổi, thì người chồng không có quyền yêu cầu ly hôn. Quy định này xuất phát từ nguyên tắc bảo vệ phụ nữ và trẻ em, người phụ nữ trong thời gian mang thai, sinh và nuôi con nhỏ tâm lý thường nhạy cảm, bất ổn, dễ xúc động, nếu bị tác động tâm lý nặng nề dễ dẫn đến suy nghĩ và hành động tiêu cực; còn đối với trẻ em thì đây là thời gian cần phải có sự bao bọc của cả bố và mẹ để có thể phát triển ổn . Do đó, điều luật này nhằm thể hiện sự quan tâm của pháp luật cũng như cả xã hội. Tuy nhiên, nếu người vợ yêu cầu ly hôn hoặc hai bên thuận tình ly hôn thì Tòa án vẫn thụ lý.
Việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn được quy định như sau: Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con. Trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi theo nguyên tắc: Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con. Nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.